Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Bài nói chuyện của Bí thư Tỉnh ủy Lương Nguyễn Minh Triết tại hội nghị sinh hoạt chính trị kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930

Việt NamViệt Nam03/02/2025


Hôm nay (3/2) kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2025), Báo Quảng Nam trân trọng giới thiệu toàn văn 2 trong số 3 nội dung bài nói chuyện của Bí thư Tỉnh ủy Lương Nguyễn Minh Triết tại Hội nghị sinh hoạt chính trị kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2025), 50 năm ngày giải phóng tỉnh Quảng Nam (24/3/1975 - 24/3/2025) và 95 năm ngày thành lập Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (28/3/1930 - 28/3/2025) với chủ đề “Kỷ nguyên phát triển mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam và nhiệm vụ, giải pháp để Quảng Nam bước vào kỷ nguyên phát triển mới”.

Thưa các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh!

Thưa toàn thể các đồng chí tham dự hội nghị tại điểm cầu trung tâm và các điểm cầu trên toàn tỉnh!

Hôm nay, trong không khí vinh dự, tự hào kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2025), 50 năm ngày giải phóng tỉnh Quảng Nam (24/3/1975 - 24/3/2025) và 95 năm ngày thành lập Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (28/3/1930 - 28/3/2025); Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị sinh hoạt chính trị với chủ đề “Kỷ nguyên phát triển mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam và nhiệm vụ, giải pháp để Quảng Nam bước vào kỷ nguyên phát triển mới”.

Nhân ngày làm việc đầu năm của xuân mới Ất Tỵ, thay mặt Ban Thường vụ Tỉnh ủy và với tình cảm cá nhân, tôi xin gửi đến các đồng chí cán bộ, đảng viên trong toàn tỉnh lời chúc mừng năm mới, lời thăm hỏi chân tình. Chúc năm mới nhiều sức khỏe, nhiều may mắn, nhiều thắng lợi mới.

8e3b50c96225dd7b8434.jpg
Bí thư Tỉnh ủy Lương Nguyễn Minh Triết nói chuyện tại hội nghị. Ảnh: HỒ QUÂN.

Thưa các đồng chí!

Tại Hội nghị sinh hoạt chính trị hôm nay, thay mặt Thường trực Tỉnh ủy, tôi trao đổi với các đồng chí gồm 3 nội dung sau:

Phần thứ nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam 95 năm ra đời, xây dựng, chiến đấu và trưởng thành. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - 95 năm dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.

Phần thứ hai: Kỷ nguyên phát triển mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam và nhiệm vụ và giải pháp để tỉnh Quảng Nam bước vào kỷ nguyên phát triển mới.

Phần thứ ba: Thông báo nhanh kết quả hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII (ngày 24,25/1/2025)

co dang lot nen

Phần thứ nhất

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 95 NĂM RA ĐỜI, XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU VÀ TRƯỞNG THÀNH. ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NAM - 95 NĂM DƯỚI LÁ CỜ VẺ VANG CỦA ĐẢNG

I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ BƯỚC NGOẶT VĨ ĐẠI TRONG LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

1. Về khái quát bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam

Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Bên trong tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa… làm đời sống nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực, khiến phong trào đấu tranh diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.

Trên thế giới, với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người. Năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy phong trào cộng sản phát triển mạnh mẽ và có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.

Đối với nước ta, năm 1858, thực dân Pháp xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị, biến Việt Nam từ nước phong kiến độc lập thành nước thuộc địa - phong kiến. Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.

Về kinh tế, chúng cấu kết với địa chủ bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số cơ sở phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.

Về văn hóa, chúng tiến hành chính sách ngu dân; bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại, xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.

Đứng trước sự cai trị, đàn áp của thực dân Pháp, hàng trăm cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu tranh của Nhân dân ta diễn ra mạnh mẽ, như: Phong trào Cần Vương; phong trào nông dân Yên Thế, khởi nghĩa Yên Bái và các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc, thất bại do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết.

a5cddd38efd4508a09c5.jpg
Các đại biểu tham dự hội nghị tại điểm cầu chính.

Giữa lúc dân tộc ta đứng trước khủng hoảng về đường lối cứu nước thì ngày 5/6/1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Sau khi đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã rút ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa. Từ đó, Người hoạt động không biết mệt mỏi, trở thành người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam và tìm mọi điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam, với việc ra đời 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam: Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ; An Nam Cộng sản Đảng ở Nam Kỳ; Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ở Trung Kỳ.

Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc). Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam - thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sĩ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc. Là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới; nhờ đó, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời, đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.

II. NHỮNG MỐC SON CHÓI LỌI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRÊN CHẶNG ĐƯỜNG 95 NĂM VINH QUANG CỦA ĐẢNG

1. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945) - khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đó là cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh; cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939); cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945).

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc.

2. Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước (1945 - 1975)

2.1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, lãnh đạo toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945 - 1954)

Trong những năm 1945 - 1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6/1/1946); xây dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của Nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám.

Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; đồng thời, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp giành thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta.

2.2. Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 - 1975)

Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Nhân dân ta bắt tay vào xây dựng, khôi phục kinh tế - văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội; ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất chân thực dân Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Nhiệm vụ của Đảng ta trong giai đoạn này hết sức nặng nề, đó là phải lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gồm: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của Nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và Nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là một trong những trang sử chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính thời đại sâu sắc.

Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế - xã hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của, hoàn thành vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.

77b7525960b5dfeb86a4.jpg
Các đại biểu dự hội nghị. Ảnh: HỒ QUÂN

3. Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay

3.1. Từ năm 1975 đến năm 1986

Sau giải phóng miền Nam, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế - xã hội vừa chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế cùng với quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng; đồng thời, tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân lao động.

3.2. Từ năm 1986 đến nay

Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, Đại hội VI của Đảng (12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

Các nghị quyết của Đảng từ Đại hội VIII đến nay tiếp tục khẳng định sự kiên định, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới không ngừng được bổ sung và phát triển. Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn thiện và cụ thể hóa toàn diện các định hướng đổi mới, phát triển, xác định rõ trọng tâm trong từng giai đoạn.

Gần 35 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) và 40 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo; từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, nước ta đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững, lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm.

4. Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam

Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Hai là, sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời Nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.

Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.

Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực; đồng thời, tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.

Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng, chống những nguy cơ lớn: Sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.

III. PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VẺ VANG, TÍCH CỰC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, XÂY DỰNG NƯỚC TA NGÀY CÀNG GIÀU MẠNH, VĂN MINH, VĂN HIẾN VÀ ANH HÙNG

1. Những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp.

(1) Truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

(2) Truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng đắn và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng.

(3) Truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ Nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Sức mạnh vô tận của Nhân dân làm nên sức mạnh vô địch của Đảng; nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với Nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.

(4) Truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí.

(5) Truyền thống đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta hình thành và thực hiện thành công đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời kỳ, phát huy đến đỉnh cao sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa cách mạng Việt Nam liên tục phát triển.

Những truyền thống quý báu của Đảng ta là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế trên một tầm cao mới của thời đại; là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng; là kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh xương máu, phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, đảng viên.

2. Tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

Trong 95 năm qua, Đảng ta nỗ lực không ngừng, bám sát tình hình thực tiễn trong nước và thế giới để ban hành các quyết sách, chiến lược đúng đắn, sáng tạo đưa cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh để có những thắng lợi vĩ đại, vinh quang, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển vững mạnh, đời sống Nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Đảng ta đã không ngừng tự đổi mới, dành nhiều thời gian và công sức cho công tác xây dựng Đảng, xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, xuyên suốt trong các nhiệm kỳ của Đảng.

Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thực hiện toàn diện, đồng bộ, sâu sắc 10 nhiệm vụ về xây dựng Đảng, đáp ứng yêu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Những kết quả đó, khẳng định bản lĩnh chính trị, sự vững vàng, kiên định, nhất quán của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; làm cho Đảng ta đoàn kết hơn, vững mạnh hơn, trong sạch hơn, củng cố niềm tin, tin tưởng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân với Đảng, Nhà nước.

63a5a34991a52efb77b4.jpg
Bí thư Tỉnh ủy Lương Nguyễn Minh Triết nói chuyện tại hội nghị. Ảnh: HỒ QUÂN

VI. ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NAM - 95 NĂM DƯỚI LÁ CỜ VẺ VANG CỦA ĐẢNG

1. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam được thành lập - Mốc son chói lọi trong lịch sử cách mạng tỉnh nhà

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930, chỉ chưa đầy 2 tháng sau, vào ngày 28/3/1930 tại địa điểm Cây Thông Một, xã Cẩm Hà (nay là khối phố Tân Thanh, phường Tân An), thành phố Hội An, Đảng bộ tỉnh Quảng Nam được thành lập. Đảng bộ tỉnh ra đời “sớm thứ hai cả nước, chỉ sau Đảng bộ thành phố Hà Nội”. Đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa to lớn đối với Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Quảng Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.

Trải qua 95 năm xây dựng và trưởng thành (1930 - 2025), gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986 - 2025), 50 năm giải phóng (1975 - 2025), đặc biệt, sau gần 30 năm tái lập, Đảng bộ tỉnh Quảng Nam đã lãnh đạo quân và Nhân dân tỉnh nhà lập nên những thành tựu rất đỗi tự hào.

2. 45 năm trung dũng, kiên cường (1930 - 1975)

Sau khi ra đời, mặc dù là một Đảng bộ còn non trẻ, sau 15 năm thành lập (1930 - 1945), với sự nhạy bén, linh hoạt, đặc biệt là sự vận dụng sáng tạo “Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, Đảng bộ đã lãnh đạo Nhân dân trong tỉnh kịp thời chớp thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền trong mùa thu cách mạng (1945), đưa Quảng Nam trở thành một trong những tỉnh, thành khởi nghĩa giành chính quyền sớm nhất trong cả nước.

Trong 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), đặc biệt, trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), phong trào cách mạng miền Nam nói chung, Quảng Nam nói riêng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách khốc liệt. Những năm 1954 - 1959, đây là giai đoạn khó khăn nhất của cách mạng Quảng Nam, nhiều lúc khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua. Chính trong giai đoạn “lửa thử vàng” này, Đảng bộ đã được tôi luyện, phẩm chất người cộng sản càng ngời sáng; địch càng đánh phá, đường lối chiến tranh Nhân dân càng chứng tỏ sự đúng đắn. Với “quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, từ trong thực tế đánh Mỹ, vành đai diệt Mỹ Hòa Vang và vành đai diệt Mỹ Chu Lai được hình thành; đồng thời, vận dụng sáng tạo phương châm “hai chân”, “ba mũi giáp công”, “tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược”. Nhờ đó, quân và dân Quảng Nam đã lập nên nhiều chiến công vang dội. Những chiến thắng Núi Thành, Đồng Dương, Nông Sơn - Trung Phước, Thượng Đức, Tiên Phước - Phước Lâm… mãi mãi là mốc son chói lọi, minh chứng hùng hồn cho ý chí cách mạng kiên cường, cho tinh thần chiến đấu quả cảm của quân và dân Quảng Nam, ghi danh vào lịch sử dân tộc với danh hiệu “Quảng Nam - Đà Nẵng: Trung dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn quê hương (24/3/1975), góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975).

3. Những dấu ấn nổi bật, sáng tạo sau 50 năm giải phóng (1975 - 2025)

3.1. Quê hương được hoàn toàn giải phóng, nhiệm vụ đặt ra cho Đảng bộ và Nhân dân Quảng Nam hết sức nặng nề. Nhiệm vụ đầu tiên là tập trung sản xuất, giải quyết lương thực. Cùng với việc khai hoang, phục hóa, rà phá bom mìn, các cấp ủy đảng đã tích cực chỉ đạo vận động Nhân dân di dời mồ mả, giải phóng đất đai cho sản xuất, gắn với việc quy hoạch lại ruộng đồng, làng xóm. Đây là một chiến dịch không kém phần gay go vì đụng chạm đến phong tục, tập quán của người dân. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã triệu tập hội nghị “Diên hồng” thuyết phục để người dân hiểu và thực hiện.

Với quyết tâm phải xóa cái nghèo đói ở vùng cát bằng chính sách khuyến khích trồng rừng, làm thủy lợi đưa nước về, cải tạo đất, chuyển hướng sản xuất, Ban Thường vụ Tỉnh ủy xác định thủy lợi là biện pháp hàng đầu và phát động phong trào quần chúng tiến quân mạnh vào mặt trận thủy lợi. Công trình Đại thủy nông Phú Ninh ra đời là minh chứng rõ nhất cho ý chí, khát vọng và việc không khuất phục định mệnh của Đảng bộ và Nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng. Đây là công trình Thủy lợi lớn nhất được xây dựng ở miền Trung sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.

Trước yêu cầu phát triển của đất nước, ngày 1/1/1997, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được chia tách thành 2 đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Ngay từ những ngày đầu chia tách, Đảng bộ quan tâm chú trọng công tác xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng - Nhân dân là cơ sở vững chắc, là yếu tố quyết định cho sự nghiệp xây dựng và phát triển quê hương.

Đảng bộ tỉnh đã tập trung lãnh đạo thực hiện 03 nhiệm vụ đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, về tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư và xây dựng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

50 năm sau ngày quê hương giải phóng, gần 30 năm tái lập, Quảng Nam từ một tỉnh nằm trong nhóm nghèo nhất nước, phải nhận trợ cấp trên 70% ngân sách Trung ương, đến năm 2024, quy mô nền kinh tế hơn 129 nghìn tỷ đồng, thuộc nhóm các tỉnh, thành phố có đóng góp ngân sách cho Trung ương.

3.2. Kết quả nổi bật năm 2024

Thứ nhất, công tác xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị tiếp tục được tăng cường; công tác giáo dục chính trị tư tưởng được thực hiện tốt, kịp thời theo dõi, nắm bắt, định hướng thông tin, dư luận xã hội. (Phát triển được 2.203 đảng viên, đạt 115,95% so với nghị quyết đề ra. Hoàn thành việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; khẩn trương triển khai việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18 và ban hành Đề án số 25 về tổng thể sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy cấp tỉnh, cấp huyện theo tinh thần chỉ đạo của Trung ương). Công tác chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 được triển khai thực hiện nghiêm túc theo kế hoạch đề ra. Công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được triển khai thực hiện quyết liệt (chỉ đạo xử lý đối với 15 vụ án, vụ việc phức tạp, kéo dài, dư luận xã hội quan tâm); công tác phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật, thi hành án đảm bảo đúng pháp luật.

Thứ hai, kinh tế - xã hội của tỉnh phục hồi tích cực và phát triển trên các lĩnh vực, đặc biệt là điểm sáng về tốc độ tăng trưởng kinh tế ước tính đạt 7,1%. (Quy mô nền kinh tế tính theo giá hiện hành đạt khoảng 129 nghìn tỷ đồng, tăng 16,5 nghìn tỷ đồng so với năm 2023. GRDP bình quân đầu người ước đạt hơn 84 triệu đồng, tăng 10 triệu đồng so với năm 2023). Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh đạt hơn 27.600 tỷ đồng, gấp hơn 217 lần so với năm 1997 (năm 1997, thu ngân sách trên địa bàn tỉnh đạt 127 tỷ đồng).

An sinh xã hội được đảm bảo. Tiếp tục triển khai thực hiện tốt 3 Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (137/193 xã, 4 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới); về giảm nghèo bền vững tỷ lệ giảm so với năm trước (số hộ nghèo toàn tỉnh còn 20.272 hộ, tương ứng với tỷ lệ 4,56%, giảm 1,01% so năm 2023). Về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tiếp tục được quan tâm và phát huy hiệu quả (với tỷ lệ hộ nghèo giảm 9%, vượt chỉ tiêu đề ra; đã xóa 67% nhà tạm; có 75% hộ dân được hỗ trợ đất sản xuất và chuyển đổi nghề). Diện mạo khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã có những đổi thay tích cực, hệ thống kết cấu hạ tầng được đầu tư, nâng cấp, rút ngắn khoảng cách giữa miền núi với đồng bằng.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội đạt được những kết quả quan trọng. Giáo dục và đào tạo phát triển toàn diện về quy mô và chất lượng (61,29% trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia, tỷ lệ tốt nghiệp THPT đạt kết quả khá cao 98,48%). Công tác khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân được triển khai thực hiện tốt (48,3 giường bệnh/vạn dân, đạt chỉ tiêu nghị quyết đề ra); có 96,2% dân số tham gia bảo hiểm y tế. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ tốt cho sản xuất, đời sống. Về môi trường, tỉnh đăng cai tổ chức thành công “Năm phục hồi đa dạng sinh học quốc gia - Quảng Nam 2024”, tỷ lệ che phủ rừng đạt 59,19% (vượt chỉ tiêu nghị quyết đề ra); có 98% chất thải rắn đô thị được thu gom. Công tác đền ơn đáp nghĩa, các chế độ đối với các gia đình chính sách, người có công với cách mạng, hộ nghèo, cận nghèo, đối tượng xã hội được chăm lo thực hiện.

Thứ ba, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội cơ bản được giữ vững ổn định; xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được tăng cường, các tiềm lực trong khu vực phòng thủ được quan tâm củng cố. Thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật. Các hoạt động đối ngoại diễn ra ngày càng sôi động với việc duy trì, đẩy mạnh quan hệ hữu nghị đoàn kết đặc biệt Quảng Nam - Sê Kông, Quảng Nam - Chămpasak; xúc tiến, mở rộng quan hệ đầu tư với các địa phương, tổ chức nước ngoài.

Những thắng lợi trên là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn, tư duy đổi mới, sáng tạo, bản lĩnh chính trị vững vàng, sự đoàn kết, thống nhất tư tưởng chính trị, hành động cách mạng của Đảng bộ Quảng Nam, được Nhân dân trong tỉnh đồng tình, hưởng ứng. Những thành tựu đó được tạo dựng và vun đắp qua nhiều thế hệ nối tiếp, từ những người đặt nền móng ban đầu cho đến những người xây dựng nên kiến trúc kinh tế - xã hội như ngày nay trên những nền móng ban đầu.

Thưa toàn thể các đồng chí!

Chúng ta vui mừng và tự hào kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2025), 50 năm ngày giải phóng tỉnh Quảng Nam (24/3/1975 - 24/3/2025) và 95 năm ngày thành lập Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (28/3/1930 - 28/3/2025). Những thắng lợi vĩ đại trong 95 năm qua kể từ ngày có Đảng lãnh đạo, sự ra đời của Đảng bộ tỉnh và 50 năm ngày giải phóng tỉnh Quảng Nam là minh chứng sinh động nhất về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và sức mạnh to lớn của Nhân dân ta nói chung, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Quảng Nam nói riêng.

Những thành tựu qua 95 năm ngày thành lập Đảng bộ tỉnh và 50 năm ngày giải phóng tỉnh là hết sức quan trọng, tạo tiền đề vững chắc, là động lực to lớn để Quảng Nam viết tiếp trang sử hào hùng, tạo nên những kỳ tích trong giai đoạn mới. Chặng đường phía trước đang mở ra cho Quảng Nam nhiều thời cơ, thuận lợi mới; song cũng không ít khó khăn, thách thức. Thay mặt Ban Thường vụ Tỉnh ủy, tôi kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên tỉnh nhà tiếp tục nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ hơn nữa; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; giữ vững quốc phòng, an ninh; chúng ta cần huy động, khơi dậy mọi nguồn lực, động lực, sức sáng tạo; cần khai thác, sử dụng mọi tiềm năng còn tiềm ẩn, mọi cơ hội, lợi thế của tỉnh nhà, của từng tổ chức đảng, đảng viên, từng cấp, từng ngành, mỗi cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, từng người dân Việt Nam. Hơn khi nào hết chúng ta cần phát huy cao độ tinh thần đoàn kết, chung sức, đồng lòng, “dám nói, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung”… quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa Quảng Nam trở thành tỉnh phát triển khá của cả nước vào năm 2030.

co dang lot nen

Phần thứ hai

KỶ NGUYÊN MỚI - KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM VÀ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP ĐỂ QUẢNG NAM BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN MỚI

I. MỘT SỐ NHẬN THỨC VỀ KỶ NGUYÊN MỚI VÀ NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC ĐƯA ĐẤT NƯỚC BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN MỚI, KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC

Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhiều lần đề cập, phân tích sâu sắc về kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Đây là một chủ trương, định hướng mới, có tầm chiến lược phát triển đất nước, có ý nghĩa chính trị to lớn, cần được nghiên cứu, cụ thể hóa và đưa vào văn kiện đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 để quán triệt sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và tổ chức thực hiện với quyết tâm chính trị cao.

ef92c6090de5b2bbebf4.jpg
Sản xuất công nghiệp Quảng Nam phát triển mạnh trong những năm gần đây. Ảnh: HOÀNG ĐẠO

1. Nhận thức về một số khái niệm và nội hàm cơ bản về kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Kỷ nguyên mới: Dùng để chỉ một giai đoạn mới với những tiến bộ, đổi mới hoặc thay đổi đáng kể trên nhiều lĩnh vực như công nghệ, xã hội, kinh tế hay chính trị; mang lại sự thay đổi lớn trong cách sống và làm việc. Kỷ nguyên mới thường được bắt đầu từ những cột mốc có tính bước ngoặt và gắn với những mục tiêu mới.

Kỷ nguyên vươn mình: Nói về sự chuyển mình mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại.

Về nội hàm: Đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu.

Theo Tổng Bí thư, đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dâu giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên phát triển mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Và thời điểm bắt đầu kỷ nguyên phát triển mới là Đại hội XIV của Đảng.

2. Cơ sở định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Tổng Bí thư phân tích và chỉ rõ 3 cơ sở, đó là:

Thứ nhất, những thành tựu vĩ đại đạt được sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 193 nước là thành viên Liên hợp quốc; xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực. Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh; hoàn thành về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng nâng cao; tham gia đóng góp tích cực duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Thứ hai, thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới, đây cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước. Sự biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới; đồng thời, cũng có nhiều thách thức, trong đó, mặt thách thức nổi trội hơn và thời cơ mới còn có thể xuất hiện trong khoảnh khắc giữa những thay đổi đột biến trong cục diện thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, phát triển vượt bậc.

Thứ ba, lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, khơi dậy ý chí tự lực, tự chủ, tự tin, tự cường, tự hào dân tộc, huy động sức mạnh toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại, con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ đạt được những kỳ tích. Hiện nay là thời điểm ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Từ những vấn đề trên, Tổng Bí thư nhấn mạnh: Đây là thời điểm “hội tụ” tổng hòa các lợi thế, sức mạnh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Thông điệp của Tổng Bí thư là lời kêu gọi thiêng liêng của Đảng, mang âm hưởng của mạch nguồn dân tộc, không chỉ dẫn dắt mà còn truyền cảm hứng, niềm tin cho các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân cùng tiến bước trên con đường đổi mới, trước mắt là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao.

Thông điệp về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc mà Tổng Bí thư đưa ra vào đúng thời điểm rất quan trọng: Toàn Đảng đang tập trung chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, dự kiến tổ chức vào tháng 1/2026. Đây là sự kiện chính trị trọng đại của đất nước và càng có ý nghĩa to lớn được chọn là điểm khởi đầu của kỷ nguyên phát triển mới.

Theo Tổng Bí thư, muốn hiện thực hóa khát vọng, mục tiêu đã đề ra, không có con đường nào khác là toàn Đảng, toàn dân, triệu người như một, khơi dậy hào khí dân tộc, tự lực, tự cường, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là nền tảng, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá để đưa đất nước đi lên.

3. Định hướng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Tổng Bí thư nêu ra 7 nội dung chiến lược:

3.1. Về cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng

Trong 95 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không ngừng tìm tòi, phát triển, bổ sung, hoàn thiện phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền. Đây là yếu tố then chốt bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua mọi thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Bên cạnh kết quả, vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, vì vậy, yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, đảm bảo Đảng là người cầm lái vĩ đại, đưa dân tộc ta tiến lên mạnh mẽ đang đặt ra cấp thiết.

4 giải pháp chiến lược thời gian đến:

(1) Thực hiện nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tuyệt đối không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng.

(2) Tập trung tinh gọn tổ chức bộ máy các cơ quan của Đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, bộ “tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước.

(3) Đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thật sự là các “tế bào” của Đảng.

(4) Đổi mới công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng.

3.2. Về tăng cường tính đảng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân

Sau 2 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế.

6 giải pháp đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp:

(1) Chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Tư duy quản lý không cứng nhắc, dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”;

(2) Các quy định của luật phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài; luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc; không cần quá dài;

(3) Đổi mới quy trình xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật. Bám sát thực tiễn đất nước để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể; chủ động phát hiện và tháo gỡ những “điểm nghẽn” có nguyên nhân từ các quy định của pháp luật.

(4) Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”.

(5) Tập trung kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm”.

(6) Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới (nhất là những vấn đề liên quan đến cách mạng 4.0, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh…).

166470954279fd27a468.jpg
Quang cảnh hội nghị. Ảnh: HỒ QUÂN

3.3. Về tinh gọn tổ chức bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả

- Nhiệm vụ đặt ra rất cấp thiết:

(1) Hiện nay, 70% ngân sách dùng để nuôi bộ máy; giữa lập pháp và hành pháp chồng lấn nhau; chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Một số bộ, ngành còn ôm đồm nhiệm vụ của địa phương, tồn tại cơ chế xin, cho, dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả còn bất cập, tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức còn thiếu triệt để.

(2) Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến cản trở phát triển, tăng thủ tục hành chính, lãng phí thời gian, công sức của doanh nghiệp, công dân, làm lỡ thời cơ phát triển của đất nước.

- 3 chủ trương chiến lược:

(1) Tiếp tục tập trung xây dựng, tinh gọn tổ chức bộ máy Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội;

(2) Cắt giảm đầu mối trung gian không cần thiết, sắp xếp tổ chức theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo hướng “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm sự thống nhất trong quản lý nhà nước và phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao khả năng tự chủ, tự cường của các địa phương;

(3) Sơ kết đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 18 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả trong toàn hệ thống chính trị trình Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII; làm cơ sở có những quyết sách mới đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức cán bộ theo định hướng đã được Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII thống nhất.

3.4. Chuyển đổi số

Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”; trong đó, đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên; là tư liệu sản xuất quan trọng. Quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số. Hiện nay, quan hệ sản xuất chưa phù hợp, đang cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất mới.

- 4 giải pháp chủ yếu:

(1) Tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho phát triển số, nhất là tạo hành lang cho các mô hình kinh tế mới, như: Kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo...;

(2) Có cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư;

(3) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng nền tảng số kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, tổ chức. Đến năm 2030, Việt Nam nằm trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số;

(4) Đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn. Tập trung xây dựng xã hội số; phát triển kinh tế số, xây dựng công dân số.

3.5. Về chống lãng phí

Thực tế cho thấy, “Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho Nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô”. Tổng Bí thư nhận định: Hiện nay, lãng phí diễn ra khá phổ biến, dưới nhiều dạng thức, đã và đang gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng, gây suy giảm nguồn lực con người, tài chính…, nhất là, gây suy giảm lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước, tạo rào cản phát triển kinh tế - xã hội, thời cơ phát triển của đất nước.

- 4 giải pháp chiến lược chống lãng phí những năm đến, đó là:

(1) Đẩy mạnh phòng, chống lãng phí tương đương với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực;

(2) Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định về cơ chế quản lý, các định mức kinh tế - kỹ thuật không còn phù hợp với thực tiễn; các quy định xử lý hành vi lãng phí; về quản lý, sử dụng tài sản công;

(3) Giải quyết dứt điểm tồn tại kéo dài đối với các dự án quan trọng quốc gia, dự án trọng điểm, dự án hiệu quả thấp; các ngân hàng thương mại yếu kém. Sớm hoàn thành cổ phần hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước;

(4) Xây dựng văn hóa phòng, chống lãng phí; đưa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trở thành “tự giác”, “tự nguyện”, “cơm ăn nước uống, áo mặc hằng ngày”.

3.6. Về cán bộ và công tác cán bộ

Cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề “rất trọng yếu”, “quyết định mọi việc”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang đặt ra cấp thiết.

Tổng Bí thư định hướng: Phẩm chất, yêu cầu đối với cán bộ trong giai đoạn cách mạng mới đó là: (1) Có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; (2) Có quyết tâm cao, dám đi đầu, đổi mới, khơi thông điểm nghẽn, giải quyết vướng mắc, ách tắc trong thực tiễn, mang lại hiệu quả cao; (3) Có năng lực cụ thể, tổ chức thực hiện, đưa chủ trương, chiến lược của Đảng vào thực tiễn…

- 5 giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn mới:

(1) Đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ;

(2) Tăng cường tự đào tạo, tự bồi dưỡng, nhất là đối với yêu cầu của chuyển đổi số;

(3) Xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm...;

(4) Đưa ra khỏi vị trí công tác đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín;

(5) Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, thử thách đối với các đồng chí là nhân sự được quy hoạch tham gia cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp.

3.7. Về kinh tế

Về tổng thể, kinh tế Việt Nam có sự tăng trưởng liên tục từ khi thực hiện Cương lĩnh 1991, thường xuyên ở trong nhóm những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới, đưa Việt Nam từ nước thu nhập thấp trở thành nước thu nhập trung bình.

Tuy tốc độ tăng trưởng cao, song nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn hiện hữu, nguy cơ kinh tế Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình và khó tiệm cận với các nước đang phát triển. Tổng Bí thư định hướng một số giải pháp, định hướng chiến lược phát triển kinh tế, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, bẫy thu nhập trung bình:

(1) Đột phá mạnh mẽ hơn về thể chế phát triển, tháo gỡ điểm nghẽn, rào cản, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, huy động, khơi thông mọi nguồn lực bên trong, bên ngoài, nguồn lực trong dân, phát triển khoa học và công nghệ; đồng bộ và đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội là ưu tiên cao nhất;

(2) Tập trung xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa theo Cương lĩnh của Đảng đã xác định (dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng lãnh đạo);

(3) Tập trung phát triển lực lượng sản xuất mới gắn với hoàn thiện quan hệ sản xuất;

(4) Khởi xướng và thực hiện cách mạng chuyển đổi số. Đẩy mạnh công nghệ chiến lược, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính cho phát triển.

4d10f86b31878ed9d796.jpg
Dây chuyền sản xuất máy móc tự động tại nhà máy sản xuất lắp ráp ô tô Trường Hải.

II. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP ĐỂ TỈNH QUẢNG NAM BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN PHÁT TRIỂN MỚI

Kế thừa và phát huy những thành quả đã đạt được, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã nhấn mạnh mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, Quảng Nam trở thành tỉnh phát triển khá của cả nước. Và đã được cụ thể hóa bằng Quy hoạch tỉnh Quảng Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 ban hành kèm theo Quyết định số 72/QĐ-TTg, ngày 17/1/2024 của Thủ tướng Chính phủ.

1. Về mục tiêu tổng quát đến năm 2030

Quảng Nam phấn đấu trở thành tỉnh phát triển khá của cả nước; là cực tăng trưởng quan trọng của khu vực miền Trung - Tây Nguyên; có mạng lưới kết cấu hạ tầng đồng bộ theo hướng hiện đại; phát triển hàng không, cảng biển, dịch vụ logistics, du lịch, công nghiệp cơ khí ô tô, cơ khí chế tạo, điện khí mang tầm khu vực; hình thành trung tâm công nghiệp dược liệu, chế biến sâu sản phẩm nông, lâm nghiệp, silica mang tầm quốc gia; có cơ sở đào tạo nghề chất lượng cao; có nền văn hóa giàu bản sắc; đa số các cơ sở y tế, giáo dục đạt chuẩn quốc gia; có hệ thống đô thị đồng bộ, gắn kết với nông thôn.

2. Tầm nhìn đến năm 2050

Quảng Nam phát triển toàn diện, hiện đại và bền vững, mang đậm bản chất văn hóa đặc trưng con người xứ Quảng; phấn đấu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, có đóng góp lớn cho ngân sách Trung ương; là trung tâm du lịch quốc tế quan trọng trên cơ sở phát huy tối đa giá trị các di sản văn hóa thế giới và khu dự trữ sinh quyển thế giới. Cơ cấu nền kinh tế hài hòa, hợp lý với tính tự chủ và năng lực cạnh tranh cao. Hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Phát triển kinh tế - xã hội hài hòa giữa các khu vực đô thị và nông thôn, thích ứng với biến đổi khí hậu, chất lượng môi trường tốt. Chỉ số phát triển con người và thu nhập của người dân ở mức cao, đời sống hạnh phúc. Quốc phòng, an ninh, chủ quyền biên giới trên đất liền, biển, đảo được giữ vững.

3. Giải pháp để tỉnh Quảng Nam bước vào kỷ nguyên phát triển mới

Trong thời gian đến Quảng Nam quyết tâm thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp sau:

Thứ nhất, cần có giải pháp phát huy cho được truyền thống anh hùng, sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là sức mạnh to lớn, là yếu tố nền tảng căn bản cho phát triển bền vững, là điểm tựa vượt qua mọi khó khăn; cần phát huy tinh thần tự lực tự cường, nỗ lực đổi mới vươn lên. Trong lãnh đạo, chỉ đạo phải có tư duy phát triển đột phá, tầm nhìn chiến lược, nhìn xa, trông rộng, nghĩ sâu, làm lớn; làm việc nào dứt việc đó. Càng khó khăn, thách thức, áp lực thì cần phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt hơn. Cần có sự linh hoạt, vận dụng sáng tạo trong thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Cầu thị, lắng nghe ý kiến góp ý xác đáng của người có trách nhiệm, tâm huyết của nhân dân, của chuyên gia, nhà khoa học. Tập trung hoàn thiện cơ chế chính sách, điều chỉnh chủ trương chỉ đạo theo tinh thần sửa đổi pháp luật của trung ương, đảm bảo chính sách thông thoáng, hạ tầng thông suốt, quản trị thông minh. Đổi mới tư duy về tăng trưởng 2 con số và đề ra các biện pháp cụ thể để phấn lãnh đạo, tổ chức thực hiện (Chú trọng tư duy đổi mới, kiến tạo phát triển, tạo ra không gian phát triển mới. Đổi mới, số hóa, công khai, minh bạch. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục hành chính, thực hiện quyết liệt Đề án 06; thực hiện hiệu quả các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh).

Thứ hai, quyết liệt sắp xếp tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ “tinh, gọn, mạnh”, hoạt động “hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả” gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức theo tinh thần Nghị quyết số 18. Sau khi sắp xếp, còn 13/19 sở, giảm 31,6%. Các đầu mối bên trong các sở giảm 21,8%, đầu mối bên trong các đơn vị sự nghiệp công lập giảm 18,5%. Hiện tỉnh có 3.096 biên chế công chức và 27.661 biên chế viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước, số này sẽ giảm khoảng 20% trong thời gian tới.

Thứ ba, triển khai hiệu quả Kế hoạch thực hiện Quy hoạch 72. Khẩn trương hoàn thiện các quy hoạch liên quan trong năm 2025. Điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế mở Chu Lai đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2050; Điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu Nam Giang; Quy hoạch chung xây dựng Khu du lịch quốc gia Cù Lao Chàm; Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích quốc gia đặc biệt Khu đền tháp Mỹ Sơn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Chương trình, đề án, cơ chế phát triển trọng tâm gồm: (1) Đề án xã hội hóa đầu tư cảng hàng không Chu Lai; Cảng biển Quảng Nam (2) Đề án bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa thế giới Đô thị cổ Hội An đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035 (3) Đề án xã hội hoá công tác quản lý, khai thác di sản văn hóa thế giới Khu đền tháp Mỹ Sơn (4) Đề án phát triển và hình thành Trung tâm Công nghiệp dược liệu tại tỉnh Quảng Nam với sâm Ngọc Linh là cây chủ lực (5) Đề án hình thành và phát triển Trung tâm công nghiệp chế biến sâu các sản phẩm từ silica (6) Đề án thí điểm cơ chế khuyến khích hợp tác liên kết sản xuất theo cụm ngành công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp cơ khí tại Khu kinh tế mở Chu Lai.

Kế hoạch liên kết, quảng bá xúc tiến du lịch Quảng Nam với các địa phương trong khu vực; Kế hoạch liên kết Khu kinh tế mở Chu Lai với Khu kinh tế Dung Quất để hình thành Trung tâm công nghiệp ven biển trọng điểm của khu vực; Kế hoạch liên kết với thành phố Đà Nẵng trong xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao và quản lý tổng hợp tài nguyên nước mang tính liên vùng.

Thứ tư, khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là trong nhân dân. Tập trung làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, nhất là các giải pháp kích cầu tiêu dùng, đầu tư. Đồng thời tạo đột phá thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới, nhất là chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Đẩy mạnh thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài. Ưu tiên giải quyết các nguồn lực bị lãng phí, quy hoạch treo, dự án vướng mắc, vướng thủ tục, chậm triển khai; đất công, tài sản công không sử dụng; các vụ án kéo dài. Rà soát lại và có giải pháp sử dụng hiệu quả quỹ đất trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để phục hồi thị trường bất động sản. Đánh thức tiềm năng du lịch cộng đồng, du lịch nông thôn. Xây dựng chính sách phát triển mạnh khu vực doanh nghiệp tư nhân. Tạo môi trường tốt hơn cho doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và tạo ra giá trị kinh tế mới

Thứ năm, tập trung, đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Đây là “khoán 10” trong khoa học công nghệ, đổi mới, sáng tạo; nỗ lực “bắt kịp, tiến cùng, tăng tốc, bứt phá và vượt lên”. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ. Phát triển mạnh các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, ứng dụng công nghệ cao, theo hướng xanh hóa, bền vững, giảm chi phí logicstics.

Thứ sáu, tập trung phát triển hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông kết nối, ở khu vực miền núi. Phát triển mạnh hạ tầng sân bay, cảng biển, logistics, các khu phi thuế quan. Rà soát, hoàn thiện hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Phát triển mạnh hạ tầng số, viễn thông. Đẩy nhanh tiến độ các dự án trọng điểm, xúc tiến mạnh dự án đầu tư sân bay Chu Lai, luồng Cửa Lở; các dự án của THACO, nhất là dự án Khu công nghiệp THACO Chu Lai quy mô 451ha, các dự án giao thông (đường 14D, 14B, 14G, các tuyến kết nối Đông Tây; nạo vét sông Trường Giang, sông Cổ Cò…).

Thứ bảy, quan tâm đào tạo nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, rà soát các dự án trên địa bàn tỉnh tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.. Sớm triển khai khu đô thị Đại học Đà Nẵng. Đề án xây dựng Đại học chất lượng cao phía Nam Quảng Nam.

Thứ tám, xây dựng, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Nam. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; giá trị văn hóa, con người Quảng Nam; xây dựng con người Quảng Nam phát triển toàn diện về nhân cách, trí tuệ, năng lực, thể chất và trách nhiệm với xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Chú trọng phát triển văn hóa hài hòa với kinh tế - xã hội. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trên địa bàn tỉnh. Thực hiện tốt chính sách người có công, bảo trợ xã hội, giảm nghèo bền vững. Triển khai hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia. Triển khai quyết liệt việc xóa nhà tạm, nhà dột nát. Triển khai chống sạt lở, phòng chống thiên tai.

Thứ chín, tăng cường các giải pháp kiềm chế tội phạm; đảm bảo an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đảm bảo môi trường bình yên, an toàn để phát triển và thu hút đầu tư.



Nguồn: https://baoquangnam.vn/bai-noi-chuyen-cua-bi-thu-tinh-uy-luong-nguyen-minh-triet-tai-hoi-nghi-sinh-hoat-chinh-tri-ky-niem-95-nam-thanh-lap-dang-cong-san-viet-nam-3-2-1930-3-2-2025-3148497.html

Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Khởi đầu ngoạn mục của thị trường phim Việt năm 2025
Phan Đinh Tùng ra ca khúc mới trước thềm concert 'Anh trai vượt ngàn chông gai’
Năm Du lịch quốc gia Huế - 2025 với chủ đề “Huế - Kinh đô xưa - Vận hội mới”
Quân đội quyết tâm luyện tập diễu binh 'đều nhất, tốt nhất, đẹp nhất'

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa Phương

Sản phẩm