
Khi bé B.Q.K. mới 5 tuổi, những cơn co giật đầu tiên ập đến như những đợt sóng dữ dội, không hề báo trước. Gia đình chị C.L.V. (Hà Nội) vội vã đưa con đi khắp nơi cầu cứu. Bệnh viện nào cũng chung một chẩn đoán: bé bị động kinh.
Tần suất cơn co giật ngày càng dày đặc, có lúc lên đến cả chục lần trong một ngày, kéo dài nhiều ngày liên tiếp. Các cơn co giật kéo dài không chỉ khiến bé có nguy cơ té ngã, chấn thương mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển thể chất và trí tuệ.


Tới năm 2024, bé K. có dấu hiệu kháng thuốc – tình trạng mà giới chuyên môn gọi là động kinh kháng trị. Dù đã dùng đến liều tối đa và phối hợp nhiều loại thuốc, các cơn co giật vẫn tấn công như thể cơ thể bé từ chối mọi nỗ lực điều trị.
“Thời gian đầu, con đáp ứng thuốc khá tốt nhưng đến năm 2024, bệnh của con trở nặng, bắt đầu có những biểu hiện của việc kháng thuốc. Dù đã tăng liều và phối hợp nhiều loại thuốc khác nhau, các cơn động kinh vẫn không thể kiểm soát được”, chị V. chia sẻ.
Trước tình hình ấy, chị V. quyết định đưa con vào TPHCM, tìm đến Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park – nơi còn lại chút hy vọng cuối cùng.
ThS.BS Trần Thị Phước Yên, bác sĩ Nội thần kinh, khoa Khám bệnh & Nội khoa, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park (TPHCM), cho biết, động kinh kháng trị là tình trạng bệnh nhân động kinh không đáp ứng với điều trị bằng thuốc cho dù đã tăng liều lượng tối đa và kết hợp nhiều loại thuốc chống động kinh khác nhau. Bệnh nhân động kinh kháng trị thường có nguy cơ cao gặp các biến chứng do co giật kéo dài.

Với những trường hợp động kinh kháng trị, việc phẫu thuật loại bỏ ổ động kinh được coi là một trong những lựa chọn tối ưu. Theo y văn thế giới, phẫu thuật động kinh giúp 60-80% bệnh nhân hết động kinh sau phẫu thuật. Tuy nhiên, theo BS Yên, việc xác định chính xác ổ động kinh trong não bộ cũng là một thách thức lớn đối với các bác sĩ khi vùng tổn thương lớn, nằm sâu và khó xác định bằng các kỹ thuật đánh giá thông thường.
Trường hợp của bé K. là một ví dụ điển hình. Khi đến Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park (TPHCM), bệnh nhi được xác định là trường hợp khó vì trẻ được chẩn đoán mắc động kinh từ rất sớm (5 tuổi), cơn động kinh kéo dài và thường xuyên.
“Thời điểm nhập viện, trẻ đã 9 tuổi và dùng rất nhiều thuốc chống động kinh với liều tối đa nhưng vẫn không thể kiểm soát được cơn động kinh. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng cuộc sống cũng như sự phát triển của bé trong tương lai.
Trong khi đó, các kỹ thuật thông thường như điện não đồ da đầu, MRI sọ não và PET scan không xác định được vị trí của ổ động kinh”, BS Yên cho biết thêm.
Không tìm thấy ổ động kinh, bác sĩ không thể mổ. Mà nếu không mổ, bé sẽ phải sống cả đời trong chuỗi ngày đau đớn, tiềm ẩn nguy cơ tổn thương não không thể hồi phục. Các bác sĩ đứng trước một bài toán cực kỳ hóc búa.


Bước ngoặt quan trọng trước khi tiến hành phẫu thuật là việc xác định chính xác vị trí ổ động kinh.
7 ngày trước khi phẫu thuật, các bác sĩ từ nhiều chuyên khoa như Ngoại thần kinh, Nội thần kinh, Chẩn đoán hình ảnh… đã hội chẩn liên tục để đánh giá cũng như khoanh vùng khu vực não bộ có khả năng có ổ động kinh trước khi tiến hành đặt điện cực vào nội sọ.
Đây là lần đầu tiên phương pháp điện cực vào nội sọ được thực hiện tại Việt Nam với sự đồng hành của chuyên gia Nhật Bản, PGS Nakae Shunsuke. Việc này hỗ trợ rất lớn thời điểm tiến hành cũng như quá trình phẫu thuật loại bỏ ổ động kinh sau này của bệnh nhân.
Ngoài ra, đây cũng là lần đầu tiên Việt Nam áp dụng phương pháp Robot Autoguide định vị điện cực sâu trong não để điều trị động kinh kháng trị, giúp định vị chính xác điện cực vào não. Robot Autoguide đóng vai trò như hệ thống định vị giúp xác định chính xác vị trí mong muốn đặt điện cực vào trong vỏ não của bệnh nhân tại các vị trí an toàn.

BS Yên phân tích so với các phương pháp định vị truyền thống, Robot Autoguide giúp xác định được chính xác mục tiêu cần đặt điện cực. Tốc độ đặt điện cực sẽ nhanh hơn vì số lượng điện cực cần đặt rất nhiều - lên đến 6 vị trí, giúp rút ngắn thời gian phẫu thuật. Cánh tay robot được lập trình sẵn sẽ giúp đưa điện cực vào đúng vị trí mong muốn, ít xâm lấn, không gây tổn thương nhu mô não, tránh ảnh hưởng chức năng thần kinh của bé về sau.
Quá trình đặt điện cực nội sọ cần tính toán thật cẩn thận để có thể đưa điện cực vào nhưng không làm vỡ mạch máu, tránh biến chứng xuất huyết nội sọ, vì thế việc lập trình mất nhiều thời gian và công phu. Phẫu thuật viên cũng cần phải biết cách sử dụng cánh tay robot để lựa chọn hướng tiếp cận phù hợp.
Các điện cực nội sọ được nối với hệ thống máy điện não đa kênh Arc Zenith cho phép hỗ trợ xác định được ổ động kinh, vùng ngôn ngữ, vận động, cảm giác – giúp tránh tổn thương các chức năng này trong phẫu thuật lấy bỏ ổ động kinh.

Ca mổ khi đặt điện cực nội sọ cho trẻ mất khoảng 5 tiếng và sau 7 ngày, các bác sĩ đã xác định được chính xác vị trí ổ động kinh. Thế nhưng khó khăn chưa dừng lại ở đó, phẫu thuật loại bỏ cũng thực sự là thách thức lớn với các y bác sĩ.
ThS.BS Trương Văn Trí, Trưởng Khoa Ngoại thần kinh, Khoa Ngoại Tổng hợp, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park cùng ekip đã tiến hành phẫu thuật loại bỏ khu vực não bộ có ổ động kinh này. Ca mổ kéo dài khoảng 5 tiếng.
“Vì bệnh nhi còn nhỏ tuổi nên thời gian phẫu thuật cần được diễn ra nhanh để giảm thiểu tối đa nguy cơ mất máu, nhiễm trùng.
Ngoài ra, ổ động kinh được xác định nằm ở vùng trán ổ mắt phải và thùy trán dưới bên phải nên phẫu thuật viên phải thao tác khéo léo, chính xác để tránh tổn thương mạch máu lớn và các cấu trúc thần kinh quan trọng tại khu vực này như dây thần kinh khứu giác, thần kinh thị giác của bệnh nhi”, BS Trí nói.
Sau phẫu thuật, trẻ hồi phục tốt và được theo dõi sát sao bởi nhiều chuyên khoa khác nhau. Chứng kiến quá trình hồi phục của trẻ qua từng ngày, các bác sĩ không khỏi xúc động.

Sau hơn 1 tháng hậu phẫu, bé B.Q.K. hồi phục tốt, sinh hoạt và vui chơi bình thường, không có bất kỳ khiếm khuyết thần kinh nào. Ghi nhận chỉ có 2 cơn giật nhẹ trong khi ngủ – so với hàng chục cơn mỗi ngày trước đó.
Các bác sĩ khi nhìn thấy nụ cười của K. ngày xuất viện cũng không giấu nổi xúc động. “Chúng tôi đã chứng kiến em mệt mỏi trong thời gian dài. Nay em có thể đến trường, hòa nhập với bạn bè, tương lai tươi sáng lại mở ra”, BS Yên xúc động nói.
Người mẹ trẻ từng nghĩ không biết đến bao giờ con mới khỏi bệnh, nay đã được thấy con có những giấc ngủ trọn vẹn. “Giờ tôi có thể mơ một giấc mơ bình thường – được nhìn con lớn lên mỗi ngày như bao đứa trẻ khác”, chị V. xúc động.

“Có rất nhiều bệnh nhân động kinh kháng trị nhưng chúng ta không thể xác định được chính xác ổ động kinh bằng các phương pháp thường quy như đo điện não đồ ở da đầu, chụp MRI sọ não và PET scan mà lâu nay chúng ta vẫn đang áp dụng ở Việt Nam. Do đó, bệnh nhân phải sống với các động kinh hành hạ họ hàng ngày”, BS Yên chia sẻ.
Tuy nhiên, với sự phát triển của y học hiện đại, kỹ thuật đặt điện cực nội sọ có hỗ trợ robot đã mở ra bước ngoặt mới trong điều trị bệnh. Kỹ thuật này cho phép bác sĩ xác định chính xác ổ động kinh, đặc biệt là các ổ nằm sâu trong não, điều mà các phương pháp truyền thống khó thực hiện được. Nhờ đó, nhiều bệnh nhân có cơ hội được loại bỏ hoàn toàn ổ động kinh, từ đó thoát khỏi căn bệnh quái ác này.
Với trẻ em, điều trị thành công càng có ý nghĩa lớn. Nó không chỉ giúp thoát bệnh mà còn cứu cả một tương lai. Một đứa trẻ nếu được chữa đúng lúc sẽ không còn mang gánh nặng tâm lý, học hành, phát triển xã hội, thậm chí là trí tuệ, tất cả đều có thể cứu vãn.

Việc xác định vị trí đặt điện cực ở đâu là yếu tố rất quan trọng. Mỗi điện cực tương ứng với một chi phí lớn, nên cần tối ưu số lượng điện cực và vị trí đặt. Đặt càng nhiều càng tốn kém chi phí điều trị, kéo dài thời gian phẫu thuật và tăng nguy cơ nhiễm trùng.
BS Trí cũng bày tỏ triển vọng khi hướng đến mục tiêu sử dụng cánh tay robot trở thành dịch vụ thường quy trong các phẫu thuật động kinh và u não.
“Sự phối hợp hiệu quả giữa đội ngũ Nội thần kinh & Ngoại thần kinh, Chẩn đoán hình ảnh, Nhi khoa, Gây mê hồi sức trong việc xác định chính xác vị trí động kinh cũng như thực hiện đặt điện cực và phẫu thuật lấy bỏ ổ động kinh đã giúp ca mổ thành công tốt đẹp. Tại TPHCM, rất ít đơn vị chuyên sâu về động kinh có thể thực hiện được điều này”, BS Trí nói.
Vinmec đang hướng tới chuẩn hóa việc sử dụng robot Autoguide như một quy trình điều trị thường quy cho các ca động kinh phức tạp, mở ra hy vọng lớn cho cộng đồng người bệnh.
Từ một căn bệnh tưởng chừng không lối thoát, một hành trình kỳ diệu đã được viết nên. Và trên hành trình ấy, y học là ánh sáng dẫn đường đưa một đứa trẻ trở lại với thế giới bình thường, với nụ cười và một tuổi thơ vẹn tròn.
Nguồn: https://dantri.com.vn/suc-khoe/cau-be-9-tuoi-va-hanh-trinh-vuot-con-ac-mong-mang-ten-dong-kinh-khang-tri-20250728114008016.htm
Bình luận (0)