Đóng góp trong phiên thảo luận ở tổ tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV vào chiều ngày 23/10 về Dự án Luật Dân số, đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh- Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh cho rằng, việc khuyến khích sinh con cần gắn liền với bảo đảm điều kiện để “sinh con và nuôi con tốt”.
![]() |
Địa biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh cho biết: Tôi nhất trí cao với sự cần thiết ban hành Luật Dân số như Chính phủ đã nêu tại Tờ trình số 805/TTr-CP ngày 17/9/2025. Đây là đạo luật rất quan trọng, nhằm thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng về công tác dân số trong tình hình mới, đặc biệt là Nghị quyết số 21-NQ/TW năm 2017 và Kết luận số 149-KL/TW năm 2025 của Bộ Chính trị, với định hướng “chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển”.
Luật Dân số không chỉ điều chỉnh việc sinh bao nhiêu người, mà quan trọng hơn là quản lý và phát huy chất lượng, cơ cấu và phân bố dân số – yếu tố cốt lõi của phát triển bền vững, ổn định xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Dự thảo Luật đã bước đầu quy định bốn chính sách lớn: Duy trì mức sinh thay thế; Giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh; Thích ứng với già hóa dân số, dân số già; Nâng cao chất lượng dân số.
Tuy nhiên, theo tôi, dự thảo cần thể hiện rõ hơn nội hàm “dân số và phát triển”, vì đây là định hướng xuyên suốt trong Nghị quyết 21. Dân số phải được xem xét trong mối quan hệ hữu cơ với kinh tế, xã hội, môi trường và an ninh quốc phòng.
Tôi thống nhất với ý kiến thẩm tra của Ủy ban Văn hóa xã hội, dự thảo Luật nên bổ sung một điều riêng về “Chính sách của Nhà nước về công tác dân số” ở Chương I – “Những quy định chung”, thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm điều kiện sống, y tế, giáo dục, nhà ở và việc làm cho người dân; coi đầu tư cho dân số là đầu tư cho phát triển.
Thực tế cho thấy, mức sinh của Việt Nam đang giảm nhanh. Mức sinh của Việt Nam hiện chỉ đạt 1,91 con/phụ nữ, nằm trong top 5 nước thấp nhất khu vực Đông Nam Á, có nơi xuống dưới mức thay thế, đặc biệt tại các đô thị và khu vực có điều kiện kinh tế phát triển. Từ năm 1999 đến 2022, mức sinh của Việt Nam duy trì ổn định quanh mức sinh thay thế (2,1). Tuy nhiên, hai năm gần đây, mức sinh giảm nhanh, từ 1,96 con/phụ nữ năm 2023 xuống 1,91 con/phụ nữ năm 2024 - mức thấp nhất trong lịch sử. Đây cũng là năm thứ 3 liên tiếp mức sinh của Việt Nam giảm dưới mức sinh thay thế, theo Bộ Y tế. Do đó, chính sách duy trì mức sinh thay thế là hết sức cấp thiết.
Theo các chuyên gia, Việt Nam chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như áp lực công việc, khó khăn tài chính, ưu tiên phát triển sự nghiệp và thay đổi nhận thức xã hội. Ở khu vực nông thôn, phụ nữ thường sinh nhiều con hơn do kết hôn sớm, ảnh hưởng bởi phong tục tập quán, đặc biệt tại các vùng sâu, vùng xa.
Tôi đồng tình với các nhóm giải pháp mà dự thảo đưa ra, tuy nhiên Việt Nam cần xây dựng các chính sách hỗ trợ thiết thực như giảm chi phí nuôi con, hỗ trợ nhà ở và thay đổi nhận thức xã hội, tôi xin kiến nghị một số điểm:
Thứ nhất, chuyển từ hỗ trợ ngắn hạn sang chính sách dài hạn, bền vững, như hỗ trợ nhà ở xã hội, chăm sóc y tế, giáo dục mầm non, và giảm gánh nặng chi phí nuôi con cho các cặp vợ chồng. Việc khuyến khích sinh con cần gắn liền với bảo đảm điều kiện để “sinh con và nuôi con tốt”.
Nhiều quốc gia trên thế giới đã triển khai các chính sách mạnh mẽ để ngăn chặn đà giảm sinh. Hàn Quốc - quốc gia có tỷ lệ sinh thấp nhất thế giới - đã tăng gấp ba lần ngân sách cho các chương trình khuyến sinh, đồng thời trợ cấp tài chính lớn cho các gia đình sinh con. Tại Hungary, phụ nữ sinh từ 4 con trở lên được miễn thuế thu nhập cá nhân suốt đời.
Thứ hai, để bảo đảm công bằng giữa các nhóm phụ nữ, đặc biệt là lao động khu vực phi chính thức, tôi đề nghị mở rộng chính sách hỗ trợ không chỉ cho phụ nữ sinh con mà hướng đến hỗ trợ trực tiếp cho trẻ em được sinh ra – chẳng hạn trợ cấp nuôi con nhỏ, chi phí học tập cho trẻ em mầm non hoặc tiểu học ở vùng mức sinh thấp, vùng đồng bào dân tộc, miền núi, khu công nghiệp, vùng khó khăn.
Ngoài ra, cần nghiên cứu chính sách hỗ trợ điều trị vô sinh, hiếm muộn, vì đây là nhóm đối tượng đang ngày càng tăng, đặc biệt trong giới trẻ đô thị.
Việt Nam đang bước vào giai đoạn dân số già với tốc độ nhanh, dự kiến đến năm 2036, cứ 5 người thì có 1 người trên 60 tuổi. Đây là thách thức lớn nếu chúng ta không chuẩn bị kịp thời. Tôi thống nhất với đề nghị bổ sung quy định vè trách nhiệm nhà nước trong xây dựng và triển khai các chính sách già hoá dân số theo hướng thúc đẩy già hoá khoẻ mạnh. Nhà nước cần có chính sách an sinh, y tế và phục hồi chức năng phù hợp, khuyến khích phát triển mô hình chăm sóc người cao tuổi tại cộng đồng, gắn với bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Đặc biệt, cần coi đầu tư cho người cao tuổi là đầu tư cho tương lai, bởi đây là lực lượng có kinh nghiệm, có thể đóng góp tích cực cho xã hội nếu được hỗ trợ đúng mức.
Công tác dân số muốn hiệu quả cần dựa trên chuyển đổi số và dữ liệu chính xác. Tôi đề nghị dự thảo Luật cần quy định rõ việc kết nối, chia sẻ, bảo mật thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để phục vụ hoạch định chính sách dân số và phát triển; Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ trong quản lý, dự báo, và cung cấp dịch vụ dân số, như tư vấn sức khỏe sinh sản, sàng lọc trước sinh, và chăm sóc người cao tuổi. Điều này vừa nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, vừa tạo điều kiện cho người dân tiếp cận dịch vụ nhanh chóng, minh bạch.
Nhiều chính sách của Luật giao cho địa phương triển khai, song không phải địa phương nào cũng đủ năng lực tài chính. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu theo hướng quy định rõ mức hỗ trợ tối thiểu do ngân sách trung ương bảo đảm, các địa phương tùy khả năng bổ sung thêm. Cụ thể, Khoản 4 Điều 24 giao chính quyền địa phương cấp tỉnh hỗ trợ kinh phí mua thẻ bảo hiểm y tế cho người cao tuổi chưa có thẻ. Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo, cần có chính sách dân số đặc thù, gắn với ổn định dân cư, phát triển bền vững và bảo đảm quốc phòng – an ninh.
Bên cạnh đó, đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu có chính sách nhằm đẩy mạnh xã hội hóa công tác dân số – huy động doanh nghiệp, tổ chức và người dân cùng tham gia. Bởi đây là xu hướng chung của các quốc gia phát triển, vừa giảm gánh nặng ngân sách, vừa lan tỏa tinh thần trách nhiệm cộng đồng; cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp tham gia, như cho phép khấu trừ thuế đối với chi phí đầu tư xây dựng nhà trẻ, khu nuôi con nhỏ tại nơi làm việc; Ưu đãi tín dụng, đất đai cho doanh nghiệp xây trung tâm chăm sóc người cao tuổi, cơ sở tư vấn sức khỏe sinh sản; Khuyến khích hợp tác công – tư trong xây dựng bệnh viện lão khoa, cơ sở dưỡng lão, trung tâm tư vấn hôn nhân – gia đình. Kinh nghiệm từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore cho thấy: khi doanh nghiệp và xã hội cùng chia sẻ trách nhiệm với Nhà nước, công tác dân số đạt hiệu quả cao hơn, vừa bảo đảm quyền lợi người lao động, vừa thúc đẩy phát triển bền vững.
Dự án Luật Dân số mang tính chiến lược, góp phần hình thành “nguồn lực con người Việt Nam phát triển toàn diện” – khỏe mạnh, có tri thức, có trách nhiệm xã hội. Đề nghị Chính phủ, Bộ Y tế và cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát, nghiên cứu để dự thảo Luật bảo đảm tính khả thi, đồng bộ, phù hợp thực tiễn, để Luật khi ban hành thực sự đi vào cuộc sống, tạo động lực cho phát triển bền vững đất nước.
BT (ghi)
Nguồn: https://baovinhlong.com.vn/thoi-su/202510/gan-khuyen-khich-sinh-con-voi-dieu-kien-nuoi-con-1f10734/
Bình luận (0)