Từ những ngày đầu "diệt giặc dốt", xây dựng nền móng cho nền giáo dục cách mạng, đến các cuộc cải cách toàn diện, mỗi giai đoạn đều ghi dấu những nỗ lực phi thường và tầm nhìn chiến lược.
Hành trình ấy không chỉ kiến tạo tri thức mà còn đào tạo nên nhiều thế hệ công dân yêu nước, góp phần làm nên những thắng lợi vĩ đại của dân tộc, đưa Việt Nam vững bước vào kỷ nguyên hội nhập và phát triển.
Cuộc cải cách chấn hưng giáo dục: "Diệt giặc dốt"
(1950)
Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, đất nước đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn: “thù trong giặc ngoài”, kinh tế kiệt quệ, hơn 90% dân số mù chữ.
Giai đoạn 1945-1954, là một thời kỳ đặc biệt và đầy thử thách trong lịch sử dân tộc.
Việc "diệt giặc dốt" trở thành nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền giáo dục Việt Nam đã trải qua cuộc cải cách toàn diện, khởi đầu bằng phong trào Bình dân học vụ xóa mù chữ cho hàng triệu người, biến việc học chữ Quốc ngữ thành nghĩa vụ bắt buộc và miễn phí cho toàn dân.
Song song đó, một nền giáo dục hoàn toàn mới được định hình, dựa trên ba nguyên tắc cốt lõi: dân tộc hoá (lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ chính), khoa học hoá (chống lối học giáo điều), và đại chúng hoá (phục vụ đông đảo nhân dân).

Đỉnh cao của sự chuyển hướng này là cuộc Cải cách giáo dục toàn diện năm 1950, nhằm kiến thiết một hệ thống giáo dục mới, thống nhất và liên thông, phục vụ trực tiếp cho cuộc chiến và công cuộc kiến quốc tương lai.
Cuộc cải cách đã thay thế hệ thống phổ thông 12 năm bằng hệ thống 9 năm gọn nhẹ hơn, đồng thời xây dựng lại toàn bộ chương trình và sách giáo khoa theo hướng thiết thực, khoa học và đậm tinh thần dân tộc.

Sau một năm thực hiện phong trào chống nạn mù chữ (8/9/1945-8/9/1946), Đại hội Bình dân học vụ được tổ chức tại Hà Nội (Ảnh: Theo Bộ GD&ĐT).

Những thành tựu đạt được trong giai đoạn này có ý nghĩa vô cùng to lớn, không chỉ góp phần quyết định vào thắng lợi góp phần quan trọng vào chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 mà còn đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của giáo dục Việt Nam trong các giai đoạn tiếp theo.
Cuộc cải cách lần hai: Xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh
(1956)
Giai đoạn 1954-1975 là bước ngoặt lớn trong lịch sử Việt Nam, khi đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai thể chế và con đường phát triển đối lập.
Trong giai đoạn ấy, Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục là một mặt trận trọng yếu gắn liền với sự nghiệp cách mạng. Chủ trương nổi bật được thể hiện qua cuộc Cải cách giáo dục năm 1956 và Nghị định số 1027-TTg (27/8/1956) ban hành Chính sách giáo dục phổ thông, xác định mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ toàn diện, trung thành với Tổ quốc, có tài, có đức để xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện thống nhất đất nước.

Bác Hồ quan sát một cháu thiếu nhi tập đánh vần khi đến thăm lớp học vỡ lòng Đình Thạch Khối ở phố Hàng Than, Hà Nội ngày 31/12/1958 (Ảnh: Theo Bộ GD&ĐT).

Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên thăm hỏi các em học sinh trường Thuỵ Dân (Thái Bình) sống sót sau trận ném bom của giặc Mỹ ngày 21/10/1966 (Ảnh: Theo Bộ GD&ĐT).
Miền Bắc: Nền giáo dục phát triển mạnh mẽ và có hệ thống, tập trung xóa nạn mù chữ và tiến hành cải cách giáo dục lần hai.
Cải cách giáo dục 1956 thiết lập hệ thống phổ thông 10 năm với chương trình giáo dục toàn diện, gắn lý luận với thực tiễn. Đội ngũ giáo viên được đào tạo bài bản hơn. Sách giáo khoa được biên soạn mới.
Phong trào "Hai tốt" đã thúc đẩy chất lượng dạy và học. Số lượng trường đại học tăng nhanh, từ 5 trường (1959-1960) lên 17 trường (1964-1965), đào tạo hàng vạn cán bộ, kỹ sư, bác sĩ để xây dựng miền Bắc và chi viện cho miền Nam.
Ngay cả trong chiến tranh, giáo dục miền Bắc vẫn duy trì ổn định, bảo đảm “học không gián đoạn”.
Miền Nam: Giai đoạn này, nền giáo dục miền Nam duy trì song song hai hệ thống: giáo dục dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa và giáo dục trong vùng giải phóng.
Giáo dục cách mạng tại vùng giải phóng cũng có những bước đầu phát triển mạnh mẽ. Một hệ thống giáo dục riêng được xây dựng với chương trình và sách giáo khoa phù hợp, đào tạo cán bộ phục vụ kháng chiến. Dù gặp nhiều khó khăn, mạng lưới trường lớp vẫn mở rộng, linh hoạt, thể hiện sự bền bỉ của nền giáo dục cách mạng.

Phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn – Gia Định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (Ảnh: Theo Bộ GD&ĐT).
Thành tựu nổi bật nhất của giáo dục trong giai đoạn 1954-1975 là miền Bắc đã cơ bản xóa nạn mù chữ. Đến năm 1958 có 93,4% nhân dân độ tuổi 12–50 ở đồng bằng và trung du biết đọc, biết viết.
Cuộc cải cách giáo dục 1956 đã xây dựng một hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh, từ mầm non đến đại học, mở rộng mạng lưới đến tận các xã.
Ở miền Nam, trong vùng giải phóng, nền giáo dục cách mạng đã chứng minh sự linh hoạt, bền bỉ, xây dựng mạng lưới trường lớp dân chủ, đào tạo cán bộ phục vụ kháng chiến, in ấn và phổ biến hàng triệu bản sách giáo khoa.
Dù chiến tranh khốc liệt và đất nước chia cắt, giáo dục Việt Nam giai đoạn 1954-1975 vẫn đạt được những thành tựu đáng kể. Nhưng trong bối cảnh thực tiễn lúc đó, đặt ra yêu cầu đổi mới, thống nhất và nâng cao chất lượng giáo dục trên phạm vi cả nước sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng.
Cuộc cải cách toàn diện lần 3: Nỗ lực thống nhất và phục hồi
(Giai đoạn 1979-1986)
Giai đoạn 1975-1986 là một chương lịch sử hào hùng nhưng cũng đầy thử thách của giáo dục Việt Nam. Ngành Giáo dục Việt Nam đã có nỗ lực phi thường, hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử là thống nhất hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần củng cố sự đoàn kết dân tộc.
Giai đoạn 1975-1978: Ngành Giáo dục tập trung tiếp quản, ổn định hệ thống trường lớp ở miền Nam. Chiến dịch xoá mù chữ và bổ túc văn hoá được phát động rầm rộ trên toàn miền Nam.
Giai đoạn 1979-1986: Cuộc Cải cách giáo dục toàn diện lần 3 được triển khai trong bối cảnh đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc. Lần đầu tiên, một bộ chương trình và sách giáo khoa duy nhất được biên soạn và áp dụng, chấm dứt tình trạng dạy học manh mún, thiếu đồng bộ.
Tuy nhiên, giai đoạn này cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế -xã hội. Ngân sách hạn hẹp, cơ sở vật chất xuống cấp, đời sống giáo viên khó khăn đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng giáo dục.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Thị Bình trò chuyện cùng các giáo viên và học sinh Trường Lê Ngọc Hân, Hà Nội ngày 15/9/1976 (Ảnh: Theo Bộ GD&ĐT).

Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại lễ tuyên dương và phát thưởng cho học sinh giỏi Thủ đô năm học 1981-1982 vào ngày 1/6/1982 (Ảnh: Theo Bộ GD&ĐT).

Đổi mới giáo dục 1986: Vượt qua khủng hoảng, mở đường cho xã hội hoá
(Giai đoạn 1986-2000)
Từ trong khủng hoảng, công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo đã đưa đất nước vượt qua khó khăn, hồi phục và phát triển nhanh chóng, tạo nền móng cho sự phát triển trong thế kỷ mới.
Gắn liền với tiến trình đổi mới của đất nước, ngành Giáo dục đã nỗ lực đổi mới, không chỉ vượt qua được khủng hoảng mà còn có những bước phát triển quan trọng, đóng vai trò ngày càng lớn hơn trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Giai đoạn 1986-2000, ngành Giáo dục đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ, từ mô hình bao cấp sang mô hình xã hội hóa với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
Đảng ta đề ra chủ trương đa dạng hóa hình thức đào tạo và huy động nguồn lực xã hội, mở rộng các loại hình trường lớp ngoài công lập. Cơ chế tài chính giáo dục dần chuyển từ “nhà nước bao cấp toàn bộ” sang mô hình huy động nhiều nguồn, cho phép thu học phí.
Đường lối đổi mới giáo dục được khẳng định ở một tầm cao mới: Giáo dục và đào tạo được coi là “quốc sách hàng đầu”.


Đổi mới căn bản, toàn diện và chuyển đổi số: Nền giáo dục của kỷ nguyên mới
(Giai đoạn 2020-2025)
Trong giai đoạn 2000-2025, đặc biệt là sau năm 2020, giáo dục Việt Nam đã có những bước tiến đột phá, thích ứng với cuộc cách mạng công nghệ và xu thế hội nhập.
Giáo dục Việt Nam đã không ngừng đổi mới, chủ động, linh hoạt thực hiện nhiều bước tiến đột phá, kiến tạo một nền giáo dục toàn diện, sẵn sàng thích ứng với sự phát triển của thời đại.
Giai đoạn đầu những năm 2000, giáo dục tập trung vào việc mở rộng quy mô.
Từ 2011-2020, ngành đã chuyển hướng sang đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và hội nhập quốc tế.
Đổi mới căn bản, toàn diện là một trong những chủ trương lớn nhất của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục. Nghị quyết số 29-NQ/TW là văn bản then chốt định hướng cho cuộc cách mạng này.
Ngành Giáo dục đã chuyển mình mạnh mẽ, từ việc trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, và từ ứng dụng công nghệ thông tin đơn thuần sang chuyển đổi số toàn diện.
Sau năm 2020, trước những biến động phức tạp, ngành đã có những giải pháp đột phá để duy trì các hoạt động giáo dục, khẳng định vai trò then chốt trong sự phát triển của đất nước.

Vượt qua những khó khăn, nền giáo dục Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng tự hào, mang tính đột phá và thể hiện tầm nhìn chiến lược của ngành giáo dục, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.
Mạng lưới giáo dục từ mầm non đến đại học được mở rộng và hoàn thiện, cơ sở vật chất ngày càng hiện đại; số trường đạt chuẩn quốc gia và cơ sở giáo dục ngoài công lập tăng nhanh, tạo sự đa dạng về loại hình.
Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và THCS được duy trì vững chắc, nhiều địa phương phổ cập THPT, và đặc biệt năm 2017, Việt Nam công nhận hoàn thành phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi với gần 99% trẻ đi học.

Năm 2017, Việt Nam công nhận hoàn thành phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi với gần 99% trẻ đi học (Ảnh: Huyên Nguyễn).
Quy mô GD&ĐT phát triển mạnh, tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi tăng, tình trạng bỏ học giảm rõ rệt. Đến năm 2020 khoảng 70% lao động qua đào tạo nghề được cấp chứng chỉ; số sinh viên/1 vạn dân tăng từ 117 (2000) lên hơn 200 (2010) và tiếp tục tăng sau đó.
Hoàn thành chu kỳ đầu tiên trong triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018; giáo dục nghề nghiệp gắn chặt hơn với nhu cầu thị trường; bậc đại học mở rộng tự chủ, kiểm định chất lượng và có nhiều chương trình đạt chuẩn khu vực, quốc tế.
Công bằng giáo dục được cải thiện nhờ chính sách hỗ trợ học sinh nghèo, vùng khó khăn, dân tộc thiểu số, giúp gia tăng tỷ lệ nhập học của nhóm yếu thế.
Hội nhập quốc tế và chuyển đổi số trở thành động lực mới, nhiều cơ sở đào tạo liên kết quốc tế, trong khi chuyển đổi số sau đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy xây dựng kho học liệu số, dạy học trực tuyến và quản trị hiện đại, đặt nền móng cho hệ sinh thái giáo dục số của Việt Nam.

Tổng Bí thư Tô Lâm thăm Phòng thực hành giáo dục STEM Trường Trung học cơ sở Cầu Giấy, thành phố Hà Nội (Ảnh: TTXVN).
Nhìn lại chặng đường 2000-2025, giáo dục Việt Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ với nhiều thành tựu quan trọng, nổi bật là việc hoàn thành phổ cập và đổi mới căn bản toàn diện GD&ĐT.
Bước vào giai đoạn mới, với bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, việc tiếp tục đổi mới trở nên cấp thiết. Vì vậy, chuyển đổi số toàn diện, tăng cường tự chủ và thắt chặt liên kết giữa nhà trường với xã hội chính là những nhiệm vụ chiến lược để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.
Nguồn: https://dantri.com.vn/giao-duc/hanh-trinh-80-nam-nganh-giao-duc-nhung-cuoc-cai-cach-chan-hung-giao-duc-20250904162553582.htm
Bình luận (0)