Khán giả xem biểu diễn tuồng ở Nghinh Lương Đình. Ảnh: Thanh Hòa 

Tuồng hay còn gọi là hát bội, vốn là một loại hình nhạc kịch truyền thống nổi tiếng của Việt Nam, được xếp vào hàng Quốc kịch. Theo sử sách, tuồng có từ thời Trần (khoảng thế kỷ XIII) và phát triển cực thịnh vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Năm 1627, Đào Duy Từ là người đầu tiên đã mang nghệ thuật tuồng đến Kinh đô Huế. Giới nghệ nhân tuồng và cổ nhạc Huế đến nay vẫn tôn Đào Duy Từ là tổ sư và coi năm 1627 là niên đại khởi đầu của lịch sử tuồng Huế.

Kể từ năm 1627, nghệ thuật tuồng ở Huế đã trải qua hơn 3 thế kỷ phát triển trong dòng chảy văn hóa Phú Xuân - Thuận Hóa - Huế và đạt đến đỉnh cao dưới triều đại các vua Nguyễn.

Dưới triều Minh Mạng (trị vì 1820 - 1841), nhà vua đã cho xây dựng Nhà hát Duyệt Thị Đường, nhà hát đầu tiên trong Hoàng cung (Đại Nội) để diễn các vở tuồng phục vụ hoàng thân, quốc thích. Đến thời vua Tự Đức (trị vì 1847 - 1883), nghệ thuật tuồng phát triển tột đỉnh. Nhà vua cho xây thêm Nhà hát Minh Khiêm Đường, quy tụ các đào, kép giỏi về đây để tập luyện và biểu diễn. Ông còn lập cả một ban chuyên trông coi việc biên soạn, hiệu chỉnh các vở tuồng. Vua Thành Thái (trị vì 1889 - 1907) cũng đam mê tuồng đến mức không chỉ ban thưởng tiền bạc mà còn phong tước hiệu cho nhiều bậc thầy tuồng giỏi. Thậm chí, ông còn được biết đến là vị hoàng đế duy nhất của Triều Nguyễn đã từng lên sân khấu diễn tuồng và cũng là một tay trống tuồng tài ba. Hiện, Huế còn lưu giữ di tích Thanh Bình Từ Đường - Nhà thờ tổ nghệ thuật tuồng truyền thống của Việt Nam (được xây dựng vào năm 1825 dưới thời vua Minh Mạng). 

Từ sau thời Tự Đức, tuồng Huế dần vượt ra khỏi cung đình, trở thành sân khấu của quần chúng bình dân. Nhiều người đã tự đứng ra lập gánh hát. Sân khấu tuồng vốn chỉ phục vụ vua quan triều đình Nguyễn, dần chiếm lĩnh ở những nơi công cộng. Có thể kể hàng loạt những rạp hát nổi tiếng ở Huế trước năm 1945 như Bắc Hòa, Nam Hòa, Đồng Xuân Lâu, Kim Long, An Cựu, Vỹ Dạ, Bao Vinh... Hơn 50 rạp hát khắp Đông Dương bấy giờ vang dội tiếng hát, tiếng trống của sân khấu tuồng Huế.

Huế cũng là nơi tập trung nhiều kịch bản tuồng nhất. Giai đoạn kịch bản tuồng được sáng tác mạnh mẽ nhất là thời Minh Mạng đến Tự Đức. Riêng pho tuồng Vạn Bửu Trình Tường đã có hơn 100 hồi. Thời Tự Đức, có hẳn một tổ chức sáng tác tuồng được thành lập, đó là Ban Hiệu Thư, gồm các tiến sĩ và cử nhân cùng các thành phần trí thức chuyên việc sáng tác kịch bản và hiệu đính các phường bản.

Sau 1945, khi chế độ phong kiến Triều Nguyễn chấm dứt, trải qua thời gian dài chiến tranh (trước năm 1975), cùng nhịp sống hiện đại sau này, hào quang của nghệ thuật tuồng Huế dần phai nhạt. Không chỉ các sân khấu tuồng hoàng cung vắng bóng, các gánh hát tuồng trong dân gian từng chật kín khán giả cũng dần thưa thớt.

Với nỗ lực bảo tồn vốn di sản quý, gần đây, công tác đầu tư phục hồi ngành hát bội ở Huế được quan tâm. Năm 2002, Nhà hát cổ Duyệt Thị Đường được trùng tu, chính thức sáng đèn trở lại sau hơn nửa thế kỷ đóng cửa. Cùng với đó, các dự án như sưu tầm bài bản, phục dựng các trích đoạn, vở tuồng cổ; đào tạo đội ngũ kế cận; đưa nghệ thuật hát bội vào trường học… được thực hiện. Mới đây nhất, di tích Thanh Bình Từ Đường - sau thời gian dài hư hỏng, xuống cấp đã được đầu tư, trùng tu. Một số chương trình biểu diễn tuồng cũng đã được tổ chức tại đây. Trong khuôn khổ một dự án, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế cũng vừa ra mắt khu trưng bày 250 mặt nạ tuồng được phục hiện nhằm phục vụ công tác nghiên cứu, tham quan, quảng bá. Một cuộc quảng diễn tuồng Huế trong khuôn khổ Festival cũng vừa được tổ chức, phục vụ du lịch...

Với lịch sử lừng lẫy, với những nỗ lực không mệt mỏi của những người làm công tác bảo tồn, cùng khát vọng chấn hưng nghệ thuật tuồng cung đình luôn cháy bỏng trong tim của các thế hệ những nghệ sĩ tuồng xứ Huế, câu chuyện 20 năm qua, Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Huế chưa tuyển sinh được lớp tuồng nào thực sự là một trăn trở. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa quý giá này sẽ ra sao khi hụt hẫng đội ngũ kế cận?  

Cùng trăn trở ấy là câu hỏi: Cần phải làm gì để kích cầu bộ môn tuồng, từ công tác đào tạo, cơ chế hỗ trợ đến đầu ra? Nhìn rộng hơn, đó là vấn đề nhân lực cho sự phát triển của một đô thị di sản mà Huế đang hướng tới.

Ở góc độ đào tạo, ngoài ngành tuồng, những ngành đào tạo đặc thù như nhạc công truyền thống Huế, ca kịch Huế, múa hát cung đình Huế... cũng đang trong tình trạng khan hiếm người học.

Kim Oanh

Nguồn: https://huengaynay.vn/van-hoa-nghe-thuat/nhan-luc-cho-do-thi-di-san-158616.html