, báo chí Quảng Ninh vẫn miệt mài chảy, bền bỉ và lặng lẽ. Cũng như những vỉa than sâu thẳm, nơi bóng tối không làm con người khuất phục, nghề báo ở Vùng mỏ cũng không phải là công việc dành cho những ai e ngại khó khăn. Bởi để viết được về thợ mỏ, không chỉ cần ngòi bút, mà còn cần trái tim biết đồng cảm với từng nhịp sống của người thợ mỏ, cần đôi chân dạn dày trên những tầng than và đôi mắt không ngại bóng tối của lò sâu…
Ngược dòng thời gian, trở về cuối năm 1928, khi Báo Than - tờ báo đầu tiên của giai cấp công nhân mỏ ra đời trong phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp, đánh dấu sự hiện diện sớm của báo chí cách mạng tại Quảng Ninh. Không chỉ là tiếng nói, Báo Than là ngọn đuốc soi đường cho những cuộc đình công, là nơi gửi gắm khát vọng sống của những người thợ lò sống dưới đáy sâu hầm lò.
Báo Than số nào cũng có dòng khẩu hiệu ở đầu trang nhất lấy từ câu kết trong Tuyên ngôn cộng sản của Mác và Ăng-ghen: “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!”. Nội dung các bài báo là tin tức, phóng sự về đời sống cực khổ, những đối xử tàn bạo, bất công của chủ mỏ ở ngay Cẩm Phả, Cửa Ông. Báo cũng kêu gọi, hướng dẫn đấu tranh, như: “Nhà máy về tay công nhân!”, “Ruộng đất về tay nông dân!”, “Thành lập chính quyền thanh niên!”. Công nhân chuyền tay nhau, người biết chữ đọc cho người không biết chữ cùng nghe.
Báo Than có ảnh hưởng sâu rộng trong công nhân Vùng than Cẩm Phả, Cửa Ông. Các đảng viên theo dõi phản ứng của quần chúng, vừa sửa thêm cách viết vừa hiểu rõ quần chúng để kết nạp thêm đảng viên mới. Giữa năm 1929, Chi bộ chuẩn bị số báo Than đặc biệt kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga cùng với việc chuẩn bị treo cờ, căng khẩu hiệu, rải truyền đơn, đặt mìn lật đường tàu, phá trạm biến thế điện. Vừa may, đồng chí Nguyễn Văn Cừ (lúc đó mang bí danh Phùng) thay mặt Xứ ủy Bắc Kỳ ra chỉ đạo đã uốn nắn kịp thời. Đồng chí phân tích sai lầm manh động trong dự định nổ mìn nhưng khuyến khích báo Than. Đồng chí góp ý về cả nội dung và hình thức số Báo Than đặc biệt.
Sau ngày Giải phóng Khu mỏ, báo chí bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ của tái thiết và xây dựng. Báo Quảng Ninh, Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh… trở thành nhân chứng ghi lại từng bước chuyển mình của ngành Than - từ những dãy nhà tập thể đơn sơ, những ca sản xuất kéo dài thâu đêm, đến những nụ cười lấm lem nhưng rạng rỡ của người thợ khi vượt sản lượng trong chiến dịch 90 ngày đêm. Những trang báo, những phóng sự truyền hình không chỉ là câu chuyện của công việc, mà còn là tư liệu sống về đời sống, văn hóa thợ mỏ - một lớp người đã hun đúc nên bản sắc Quảng Ninh đậm chất công nhân.
“Mặc dù thời kỳ đầu mới thành lập, cơ sở vật chất rất nghèo nàn, nhưng có những tác phẩm báo chí nổi tiếng, chấn động cả nước, như bài báo của nhà báo Vũ Điều về ngành Than, công nhân mỏ nghỉ luân phiên. Báo đã nhận ra nguyên nhân do trình độ quản lý hạn chế của ngành Than nên tập trung viết về ngành Than, về đời sống công nhân từ việc giãn thợ. Báo in được công nhân chuyền tay đọc. Nhiều người không có báo thì đi phô tô về đọc. Các bài báo đi trước cơ chế quản lý, dự báo, phân tích đúng tình hình và quan trọng là đúng với nguyện vọng, khát vọng của công nhân. Sau này, Báo Quảng Ninh đã tập hợp những bài viết đó để in thành một cuốn sách” – nhà báo Lê Toán, nguyên Tổng Biên tập Báo Quảng Ninh, nhớ lại.
Nhà báo Trần Giang Nam tác nghiệp dưới hầm lò.
Những trang viết về ngành Than của nhà báo Trần Giang Nam - nguyên phóng viên Báo Quảng Ninh và Tạp chí Than - Khoáng sản Việt Nam cũng đã đi vào đời sống người Vùng mỏ một cách tự nhiên và giản dị. Cách ông viết không hô hào, không tô vẽ, mà tựa như mạch than chảy dưới lòng đất, sâu, thẳm và ấm. Trong đời làm báo của mình, ông đã kể biết bao câu chuyện về đời sống công nhân, đêm ca ba rực sáng ánh đèn lò và cả những lần ứng cứu thợ mỏ gặp sự cố… Tất cả đều hiện lên bằng tình cảm thấu hiểu, bằng sự trân trọng với từng nhân vật, từng chi tiết.
Bởi đã có quá nhiều chuyến đi, ông không nhớ được chính xác số lần tác nghiệp dưới mỏ hầm lò, hay trên tầng than nắng gió. Nhưng đọng lại nhiều nhất trong tâm trí ông luôn là cảm xúc thán phục sự phi thường của những người thợ mỏ. Trong lao động, họ phi thường khi lập nên những kỷ lục về sản lượng, mét lò. Khi xảy ra sự cố, họ dũng cảm, kỷ luật và thiện chiến như những người chiến sĩ.
Nhà báo Trần Giang Nam trải lòng: Là một người làm báo trong ngành Than - Khoáng sản Việt Nam, với những vụ sự cố gây tai nạn nghiêm trọng như thế này, thú thực, tôi không còn là người làm báo nữa, báo chí đã bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Tôi đến đó như một người trong lực lượng cứu nạn, đến đó để tham gia cứu nạn. Tôi nhớ, tất cả những đêm ngày cứu nạn đó, những người thợ mỏ biểu hiện rõ là một đội quân tinh nhuệ đặc biệt, có sự đồng tâm thật cao, có kỷ luật thật nghiêm, không khác gì quân đội. Có phải vì thế mà Bác Hồ đã ví người làm than "như quân đội đánh giặc"? Cả hàng ngàn người lần lượt đến theo yêu cầu công việc, suốt ngày đêm, mang theo dụng cụ cứu nạn, xếp hàng chỉnh tề, nghe lệnh, hô "quyết tâm!" lần lượt tiến vào lò thay cho những kíp trước tạm thời ra nghỉ. Cứ răm rắp, răm rắp, như một guồng máy đã được lên chương trình định sẵn.
Cũng như vậy, nhà báo Trọng Trung - nguyên Trưởng Phòng Chuyên đề, Đài PT-TH Quảng Ninh - chính là một trong những người làm báo hình đầu tiên đưa hình ảnh thợ mỏ lên sóng truyền hình. Mỗi phóng sự của ông không đơn thuần là đưa tin, đó là những lát cắt về tâm hồn người vùng Than, nơi một nụ cười sảng khoái của người thợ lò giữa ca ba cũng có thể trở thành khoảnh khắc lay động lòng người. Thời của ông, hình ảnh một phóng viên dẫn hiện trường dưới lò - nơi chỉ có ánh sáng ít ỏi hắt lại trên những chiếc mũ bảo hộ; hay giữa những cỗ máy khổng lồ trên khai trường lộ thiên, dường như đã mang đến một làn gió mới cho công chúng xem truyền hình. Qua tivi, thợ mỏ thấy mình trong từng phóng sự, họ càng thêm tin yêu nghề và hăng hái lao động hơn thế nữa.
Phóng viên Trung tâm Truyền thông tỉnh Quảng Ninh ghi lại khoảnh khắc ông Ngô Hoàng Ngân, Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, trò chuyện với công nhân mỏ Núi Béo.
Ngày nay, khi báo chí bước vào kỷ nguyên công nghệ, câu chuyện về người thợ mỏ không còn chỉ hiện diện trên mặt báo in hay sóng phát thanh, mà lan tỏa mạnh mẽ trên các nền tảng số. Những phóng viên báo nói như Trường Giang (Đài Tiếng nói Việt Nam) - người từng “nằm vùng” nhiều ngày liền ở các lò chợ để có những bài viết và âm thanh chân thực nhất về chân dung người thợ mỏ; phóng viên báo hình Hoàng Yến, Quốc Thắng, Hồng Thắng thường xuyên tác nghiệp dưới độ sâu âm hàng trăm mét dưới lòng đất, luôn mang theo camera hiện đại và thu về những khuôn hình đầy cảm xúc...
Dưới góc nhìn của những người làm báo hiện đại, ngành Than hiện lên với một diện mạo mới mẻ, mạnh mẽ. Những câu chuyện về tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, mô hình “mỏ thông minh”… không hề khô khan bởi vẫn có ánh mắt người thợ soi vào ống kính, có tiếng cười giòn tan trong hầm lò, có mồ hôi rơi lặng lẽ trên tay lái xe ca.
Báo chí hôm nay không chỉ đưa tin, mà còn tạo dựng hình ảnh, góp phần quảng bá văn hóa doanh nghiệp, lan tỏa giá trị vùng đất. Trong các sân chơi nghiệp vụ báo chí quốc gia, các tác phẩm về ngành Than luôn có mặt, mang theo màu sắc riêng có của Quảng Ninh - nơi báo chí và ngành Than cùng viết nên một chương sử mới.
Ê kíp phóng viên truyền hình Trung tâm Truyền thông tỉnh tác nghiệp ở mỏ hầm lò Công ty CP Than Vàng Danh - Vinacomin.
Không nhiều ngành có được sự gắn bó, mối quan hệ cộng sinh mật thiết với báo chí như ngành Than. Và cũng không nhiều nơi như Quảng Ninh - nơi từng người thợ mỏ sẵn sàng chia sẻ, kể chuyện, đưa nhà báo vào tận lòng đất sâu để thấy rõ gian lao mà không chút giấu giếm. Đó là thứ tài sản quý báu, là “chất liệu sống” không đâu có được.
Ngược lại, ngành Than cũng coi báo chí là người bạn chiến lược; hỗ trợ thông tin, hình ảnh và cùng chung tay tạo nên một “hệ sinh thái truyền thông” giàu bản sắc. Trong khó khăn hay thành tựu, báo chí và ngành Than đều song hành, gắn bó đầy mật thiết.
Quảng Ninh - miền đất của than đen, của những bàn tay chai sạn vì mồ hôi và bụi than, có những ánh mắt luôn hướng về phía trước, nơi từng mét đất đều in dấu chân người thợ mỏ. Và cũng nơi ấy, tôi bắt đầu cuộc hành trình làm báo của mình, bước vào nghề bằng tất cả sự kính trọng dành cho một vùng đất đã viết nên những trang sử sống động và báo chí đã trở thành chứng nhân, đồng hành và tiếp lửa tự bao giờ.
Có lần, trong một chuyến tác nghiệp tại lò chợ ở độ sâu âm 400 mét của mỏ hầm lò Mông Dương, tôi phỏng vấn một anh thợ lò: “Anh có từng sợ bóng tối của hầm lò không?” Anh cười: “Có, nhưng mình quen rồi. Giờ mà lên mặt đất lâu quá lại nhớ tiếng búa, nhớ mùi than, khói mìn, mùi đất đá”.
Câu trả lời ấy với tôi, như một lời nhắc nhở. Báo chí làm sao có thể ngồi phòng lạnh viết về nóng bức? Làm sao hiểu được ánh sáng nếu chưa từng đi trong bóng tối?
Phóng viên Thanh Hải, phòng Chuyên đề, Trung tâm Truyền thông Quảng Ninh, tác nghiệp dưới mỏ hầm lò Vàng Danh.
Thế hệ người làm báo chúng tôi hôm nay có lẽ khó lòng cảm nhận rõ nhịp thở vùng Than thời nhà báo Trần Giang Nam vác máy ảnh đi khắp các lò, càng không đủ từng trải như nhà báo Trọng Trung trong những phóng sự lay động lòng người. Nhưng chúng tôi có thể bước tiếp con đường họ mở ra bằng những trang viết có trách nhiệm, bằng từng khung hình đong đầy cảm xúc và bằng cả niềm tin rằng: Viết về người thợ mỏ, là viết về những anh hùng thầm lặng.
Giữa vùng than đen, ánh sáng như rực lên từ những dòng chữ, mỗi khung hình, thước phim, cánh sóng phát thanh… Tất cả cộng lại thành một mạch sống báo chí không ngừng nghỉ. Đó không chỉ là sự cộng sinh - đó là một tình yêu lâu bền giữa báo chí Quảng Ninh và ngành Than, giữa người viết và người lao động. Và chúng tôi - những nhà báo thời hiện đại sẽ tiếp nối truyền thống và tinh thần bất diệt của báo chí cách mạng, của những nhà “báo than” để đi tiếp, viết tiếp những câu chuyện không bao giờ cũ về những người thợ mỏ, những người đang cống hiến sức lực và trí tuệ mỗi ngày cho mạch than chảy mãi…
Hoàng Yến
Nguồn: https://baoquangninh.vn/song-hanh-cung-tho-mo-3360251.html
Bình luận (0)