Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Tướng Nam Long: Từ người cận vệ của Bác Hồ tới vị tướng một đời trận mạc

(Dân trí) - Khi cả nước đang hướng về Lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh Nước CHXHCN Việt Nam 2/9, dòng chảy ký ức lại đưa ta về với những ngày mùa thu tháng Tám 1945 sục sôi.

Báo Dân tríBáo Dân trí21/08/2025

Đó không chỉ là câu chuyện của những trận đánh làm rung chuyển lịch sử, mà còn là câu chuyện về những người con ưu tú, sẵn sàng dâng hiến trí tuệ, máu xương và lòng trung thành tuyệt đối để bảo vệ lãnh tụ.

Trong số những người con ưu tú ấy, nổi bật hình ảnh chàng trai dân tộc Tày Đoàn Văn Ưu, được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng giao trọng trách chỉ huy đơn vị bảo vệ Bác từ chiến khu về Thủ đô. Người thanh niên đó sau này là Trung tướng Nam Long của Quân đội nhân dân Việt Nam, đã hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh lịch sử.

Dựa trên tư liệu từ Bảo tàng lịch sử Quốc gia, tư liệu do gia đình Trung tướng Nam Long cung cấp, cùng với nguồn sử liệu và phân tích chuyên sâu từ Trung tá, Tiến sĩ Trần Hữu Huy (Viện Chiến lược và Lịch sử Quốc phòng Việt Nam), chúng tôi trân trọng giới thiệu tới bạn đọc bài viết về cuộc đời và sự nghiệp của Trung tướng Nam Long.

Người cận vệ được chọn làm "lá chắn sống" bảo vệ lãnh tụ

Năm 1945, thế giới bước vào thời điểm chuyển mình dữ dội. Ở châu Âu, phát xít Đức và Ý lần lượt sụp đổ; chiến tranh tại Thái Bình Dương đi đến hồi kết, tạo bối cảnh cho làn sóng đấu tranh giành độc lập ở nhiều nước thuộc địa.

Tại Việt Nam, ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp và dựng lên chính phủ Trần Trọng Kim. Trên thực tế, đất nước vẫn nằm dưới ách chiếm đóng.

Tướng Nam Long: Từ người cận vệ của Bác Hồ tới vị tướng một đời trận mạc - 1

Tướng Nam Long: Từ người cận vệ của Bác Hồ tới vị tướng một đời trận mạc - 2

Trung tướng Nam Long bìa trái (ảnh trái) chụp ảnh lưu niệm cùng Ban Chỉ huy Bộ Tư lệnh B4 (Ảnh: GĐCC).

Cùng thời gian đó, nạn đói 1945 lan rộng, cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu người. Nguyên nhân trực tiếp là chính sách vơ vét, ép nhổ lúa trồng đay phục vụ chiến tranh của Nhật cùng với chính sách của Pháp, cộng thêm lũ lụt và mất mùa.

Từ căn cứ Việt Bắc, Đảng Cộng sản Đông Dương và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc xác định rõ thời cơ. Ngày 12/3/1945, Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ra đời, chỉ rõ kẻ thù chính lúc đó là phát xít Nhật.

Ngày 13/8/1945, khi nhận tin Nhật bại trận và sắp đầu hàng, Trung ương và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc và ban hành Quân lệnh số 1, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa. Nhật Hoàng phát thanh tuyên bố đầu hàng vào trưa 15.8.1945.

Tại Tân Trào, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp từ 13 đến 15/8/1945; tiếp đó, Quốc dân Đại hội họp ngày 16 đến 17/8/1945, quyết định Tổng khởi nghĩa và thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam. Toàn dân đứng lên giành chính quyền trong những ngày lịch sử của Tháng Tám 1945.

Tướng Nam Long: Từ người cận vệ của Bác Hồ tới vị tướng một đời trận mạc - 3

Trung tướng Nam Long chụp ảnh cùng thế hệ đầu tiên được cử sang Liên Xô học tập (Ảnh: GĐCC).

Giữa cao trào Cách mạng Tháng Tám, khi những quyết sách lớn được đưa ra, có một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng: bảo đảm an toàn tuyệt đối cho Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trọng trách ấy đòi hỏi những con người có lòng trung thành kiên định, bản lĩnh vững vàng trước hiểm nguy và năng lực chiến đấu đã được rèn luyện.

Chiến sĩ trẻ người Tày Đoàn Văn Ưu được lựa chọn làm Đại đội trưởng đơn vị bảo vệ Bác Hồ.

Ông sinh ra và lớn lên ở Pác Bó (Cao Bằng) - nơi Bác Hồ từng chọn làm căn cứ, từ sớm đã tham gia hoạt động cách mạng.

Sau Hội nghị Trung ương 8 (5/1941), theo chủ trương của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, nhiều thanh niên ưu tú được đưa sang Trung Quốc đào tạo. Tháng 6/1941, Đoàn Văn Ưu được cử đi học tại Trường quân sự Hoàng Phố (Quảng Tây, Trung Quốc), khi mới 20 tuổi.

Trở về nước, ông là một trong 34 đội viên đầu tiên của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, và từng giữ cương vị Chính trị viên Trung đội 2 và Trung đội 4. Tháng 1/1945, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng.

Được rèn luyện trong thực tiễn, nổi tiếng với khả năng võ thuật và sử dụng vũ khí, Đoàn Văn Ưu nhanh chóng được giao trọng trách bảo vệ Bác Hồ trong thời gian Người ở chiến khu Việt Bắc.

Trong cuộc hành quân từ Tân Trào về Hà Nội, ông trực tiếp chỉ huy đơn vị bảo vệ, tổ chức vòng an ninh nhiều lớp để bảo đảm an toàn cho Bác và Trung ương, đặc biệt trong ngày 2/9/1945, khi Bác đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình.

Từ đó, ông được ví như một “lá chắn sống”, người chỉ huy lớp bảo vệ tin cậy, góp phần giữ gìn an toàn cho lãnh tụ và bộ chỉ huy cách mạng trong thời khắc quyết định của lịch sử dân tộc.

Xung phong dẫn đầu đơn vị Nam tiến

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tướng Nam Long: Từ người cận vệ của Bác Hồ tới vị tướng một đời trận mạc - 4

Quảng trường Ba Đình, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập - Khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Ảnh tư liệu).

Niềm vui chưa trọn, chỉ ba tuần sau, ngày 23/9/1945, cuộc kháng chiến Nam Bộ chống thực dân Pháp bùng nổ. Người cận vệ Nam Long bước sang một chặng đường mới: từ chỉ huy bảo vệ Bác Hồ, ông xung phong dẫn đầu đơn vị Nam tiến - Chi đội Nam Long. Chính từ đây, cái tên Nam Long thay cho Đoàn Văn Ưu, gửi gắm khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất non sông.

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ông lần lượt giữ nhiều cương vị từ trung đoàn trưởng đến tham mưu trưởng, đại đoàn phó, trực tiếp tham gia các chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn, Biên giới, Trung du, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên Phủ. Trên chiến trường, ông được mệnh danh là “Hùm xám Tây Bắc”.

Năm 1949, ông chỉ huy một cánh quân sang giúp Trung Quốc giải phóng hơn 10 thị trấn. Năm 1954, tại Điện Biên Phủ, ông chỉ huy đánh vào phân khu Hồng Cúm, tiêu diệt và bắt sống hơn 2.000 quân địch, trong đó có sĩ quan cấp cao, góp phần làm tê liệt hoàn toàn cụm cứ điểm phía Nam, đóng góp quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ.

Trong kháng chiến chống Mỹ, Trung tướng Nam Long đảm nhiệm các cương vị quan trọng tại Quân khu 4 và Quân khu Trị – Thiên, chiến trường ác liệt nhất miền Trung.

Dù chiến công lẫy lừng, ông vẫn sống giản dị và khiêm nhường. Trong mắt con trai, ông luôn là “một người lính” trước khi là một vị tướng. Khi về hưu, ông ở căn nhà nhỏ, tự bỏ lương hưu sửa sang, không phiền đến tổ chức.

Tướng Nam Long: Từ người cận vệ của Bác Hồ tới vị tướng một đời trận mạc - 5

Tướng Nam Long: Từ người cận vệ của Bác Hồ tới vị tướng một đời trận mạc - 6

Trung tướng Nam Long hàng đầu ngoài cùng bìa phải (ảnh trái) tại một hội nghị tại Liên Xô và ảnh phải là cùng với Đại tướng Võ Nguyên Giáp dự Hội nghị Khoa học Lịch sử: 30 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (Ảnh: GĐCC).

Khi được đề nghị chuyển về khu nhà có bảo vệ, ông từ chối: “Tôi chẳng cần bảo vệ, tôi là dân”. Với ông, không có bức tường nào vững chắc hơn lòng dân.

Người từng bảo vệ Bác Hồ trong ngày Độc lập, sau này lại chọn nương nhờ nơi nhân dân, cũng là sự kết tinh đẹp đẽ nhất của một người lính Cụ Hồ.

Một di sản bất tử

Tám mươi năm trôi qua kể từ mùa thu lịch sử ấy. Đất nước đã trải qua bao thăng trầm, đổi thay. Trung tướng Nam Long, "Hùm xám Tây Bắc" năm nào, đã yên nghỉ.

Chia sẻ với phóng viên báo Dân trí, Trung tá, Tiến sĩ Trần Hữu Huy, Viện Chiến lược và Lịch sử Quốc phòng Việt Nam khẳng định: “Di sản mà Trung tướng Nam Long để lại là bất tử. Nhìn lại cuộc đời ông trong bối cảnh kỷ niệm 80 năm Quốc khánh, chúng ta càng nhận ra những giá trị sâu sắc.

Tướng Nam Long: Từ người cận vệ của Bác Hồ tới vị tướng một đời trận mạc - 7

Trung tá, Tiến sĩ Trần Hữu Huy, Viện Chiến lược và Lịch sử Quốc phòng Việt Nam (Ảnh: NVCC).

Cuộc đời binh nghiệp của Trung tướng Nam Long gắn liền với sự trưởng thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam, từ những đội quân nhỏ bé buổi đầu thành lập cho đến một lực lượng chính quy, hiện đại. Ở mỗi chặng đường, ông đều để lại dấu ấn của một người chỉ huy bản lĩnh và tận tụy”.

Theo ông Huy, điều làm nên giá trị lâu dài ở ông không chỉ là chiến công, mà chính là nhân cách. Dù giữ cương vị tướng lĩnh, ông vẫn chọn cho mình lối sống giản dị, luôn coi mình trước hết là một người lính, một người dân.

Hình ảnh ấy phản chiếu rõ nét phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” – gần gũi, trong sạch, gắn bó với nhân dân – một giá trị tinh thần cần được trân trọng và tiếp nối trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hôm nay.

Từ chàng trai trẻ Đoàn Văn Ưu trong những ngày Cách mạng Tháng Tám đến vị tướng Nam Long dày dạn trận mạc, câu chuyện về ông vẫn tiếp tục truyền cảm hứng cho các thế hệ. Ông không chỉ là người cận vệ của Bác Hồ, mà còn là người góp phần gìn giữ và viết nên những trang sử trọng yếu của dân tộc.

Di sản ấy, giản dị mà bền sâu, sẽ còn ở lại cùng nhân dân và lịch sử.

Trung tướng Nam Long, tên thật Đoàn Văn Ưu (8/10/1921 – 1/7/1999), quê Cao Bằng, xuất thân trong một gia đình dân tộc Tày.

-Ông là một trong 34 đội viên đầu tiên của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam

- Tháng 6/1941, ông được cử sang Trung Quốc học quân sự, sau đó trở thành một trong 34 đội viên đầu tiên của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, giữ chức Chính trị viên Trung đội 2 và 4. Ông vào Đảng tháng 1.1945.

- Tháng 8.1945, ông làm Đại đội trưởng đơn vị bảo vệ Bác Hồ từ Pác Bó đến Tân Trào và Hà Nội trong ngày 2.9.1945. Sau đó, chỉ huy Chi đội Nam tiến – được nhân dân gọi là “Chi đội Nam Long” – chiến đấu ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ.

- Từ 1946 đến 1955, ông lần lượt giữ chức trung đoàn trưởng nhiều đơn vị, rồi Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304. Tại chiến dịch Điện Biên Phủ, ông chỉ huy cánh quân đánh Hồng Cúm, bắt sống hàng nghìn lính Pháp.

- Giai đoạn 1956–1959, ông học tại Học viện Voroshilov (Liên Xô), về nước giữ chức Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Pháo binh. Từ 1961–1973, ông đảm nhiệm Phó tư lệnh Quân khu Tả Ngạn, Tư lệnh Quân khu 4, Phó tư lệnh Quân khu Trị – Thiên.

- Năm 1974, ông làm Phó giám đốc Học viện Quân sự; tháng 4.1975 là đặc phái viên Bộ Quốc phòng trong chiến dịch Hồ Chí Minh; từ 1977 giữ chức Phó giám đốc Học viện Quân sự cấp cao.

- Ông được phong quân hàm Đại tá (1958), Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1981); được tặng Huân chương Hồ Chí Minh cùng nhiều phần thưởng cao quý; nghỉ hưu năm 1988.

- Năm 2007, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đúc tượng ông đặt tại Cao Bằng, Bảo tàng Quân đội và gia đình. Ông là vị tướng thứ 9 được tạc tượng.

Nguồn: https://dantri.com.vn/khoa-hoc/tuong-nam-long-tu-nguoi-can-ve-cua-bac-ho-toi-vi-tuong-mot-doi-tran-mac-20250820220347803.htm


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Yêu nước theo cách của người trẻ
Người dân hân hoan chào đón đại lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh
Đội tuyển nữ Việt Nam thắng Thái Lan để giành HCĐ: Hải Yến, Huỳnh Như, Bích Thùy tỏa sáng
Dòng người đổ về Hà Nội, hòa mình vào không khí hào hùng trước thềm Quốc khánh

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm