PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Trưởng Ban Lý luận phê bình văn học nghệ thuật; nhà văn Nguyễn Bình Phương, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam; nhà lý luận phê bình Nguyễn Đăng Điệp, Chủ tịch Hội đồng Lý luận phê bình, Hội Nhà văn Việt Nam chủ trì hội thảo.
Phát biểu khai mạc, nhà văn Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cho biết, hội thảo đặt ra hai vấn đề rất lớn. Một là “gọi tên” những bước ngoặt quan trọng, những thành tựu thật sự, đồng thời “gọi tên” những rào cản ngăn sự phát triển của văn học Việt Nam 50 năm qua.
Theo Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, văn học Việt Nam từ năm 1975 đến nay đã đi qua những chặng đường vô cùng quan trọng. Chặng đường thứ nhất là sau năm 1975, đất nước thống nhất, diện mạo, bình diện, chân dung của văn học Việt Nam đã khác, bao gồm cả văn học các tỉnh thành phía Bắc, phía Nam và văn học hải ngoại.
Giai đoạn quan trọng của văn học Việt Nam sau năm 1975 là giai đoạn Đổi mới. Giai đoạn này có rất nhiều khuynh hướng, các trường phái, mỹ học mới của nghệ thuật trong tất cả các thể loại, trong văn, trong thơ ca, trong lý luận phê bình, trong dịch thuật. Văn học dịch là một phần vô cùng quan trọng, tác động rất lớn trong sáng tác của văn học Việt Nam, góp phần đa dạng về khuynh hướng, về cấu trúc, về thể loại trong sáng tác của văn học Việt Nam.
Đáng chú ý, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều cho rằng, hiện nay, chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của trí tuệ nhân tạo và công nghệ số. Hiện đã có những chứng cứ của một số tác phẩm có dùng AI ở mức độ nhất định nào đó. Tuy nhiên, theo Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, khi nhà văn viết bằng sự sáng tạo của mình, bằng chính kiến của mình, bằng xúc cảm, bằng trí tuệ riêng của mình thì đó chính là vũ khí quan trọng nhất để chống lại sự can thiệp của AI và robot trong sáng tác văn học.
“Nếu chúng ta để cho trí tuệ nhân tạo thay thế cho nhà văn, thì nghĩa là chúng ta đã kết thúc văn học, kết thúc văn học trong bản thể của nó”, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều chia sẻ.
Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cũng nhận định, sau nửa thế kỷ kể từ năm 1975 đến nay, văn học Việt Nam vẫn chưa xác lập được vị thế xứng đáng của nó. Hiện thực của Việt Nam đầy biến động, đầy đột biến, đầy thay đổi và đầy cảm xúc nhưng chúng ta chưa làm được tác phẩm như mong muốn. Chân dung của văn học Việt Nam vẫn chưa rõ nét.
Trong đề dẫn hội thảo, nhà văn Nguyễn Bình Phương, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cho biết, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức hai cuộc hội thảo tổng kết văn học Việt Nam sau 1975 tại TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và đã nhận được rất nhiều ý kiến phát biểu, đánh giá của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu. Trong đó, những đánh giá về văn học 50 năm qua chia ra làm hai quan điểm tương đối khác nhau.
Ở khía cạnh vị nhân sinh, những ý kiến đánh giá, 50 năm qua, văn học đã làm tốt thiên chức và sứ mệnh của mình. Văn học đã khắc họa được tình thế của dân tộc và cũng khắc họa được thân phận của con người trong dòng chảy đầy biến động của lịch sử phát triển, dù là trong hòa bình. Văn học cũng đã dũng cảm mổ xẻ những vấn đề nóng bỏng nhất của xã hội, “khâu vá” được những vết thương hậu chiến, kiến tạo được những nét văn hóa riêng cho chính nó. Ngược lại, có những ý kiến rất nghiêm khắc, cho rằng 50 năm qua, văn học của chúng ta chưa làm tốt được chức năng của mình trong việc kiến tạo đời sống tinh thần xã hội theo hướng nhân văn và tốt đẹp. Chưa kịp thời rung những tiếng chuông cảnh báo về những giả dối của xã hội và con người, cũng như trên mặt đạo đức, lý tưởng và phẩm giá.
Ở khía cạnh vị nghệ thuật, cũng có ý kiến đánh giá một cách hào sảng rằng văn học 50 năm qua thực sự phong phú, đa dạng, thậm chí là táo bạo. Văn học đã tạo được những nét riêng cho mình so với những giai đoạn trước, đồng thời tạo được một đội ngũ tác giả đông đảo với nhiều tác phẩm. Văn học cũng đã đo được chiều sâu tâm hồn của người Việt thời hiện đại. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, 50 năm qua, văn học vẫn chủ yếu là một dòng đại thể xuôi chiều. Ít những tiếng nói đa dạng, ít những chuyển động tìm kiếm một cách quyết liệt, triệt để; thiếu những tác phẩm để đời có giá trị, thậm chí thiếu cả những tác giả đủ sức mang văn học Việt Nam ra với thế giới và đứng ngang hàng với thế giới.
Tại hội thảo, các đại biểu đã có nhiều tham luận, ý kiến đóng góp thẳng thắn về thành tựu; gợi mở những giải pháp nhằm phát triển văn học Việt Nam. Trong đó, GS Phong Lê cho rằng, văn học Việt Nam sau 50 năm đang chờ một cuộc chuyển giao thế hệ. Theo GS Phong Lê, lực lượng chủ công trong đội ngũ viết hôm nay phải là thế hệ viết sinh ra trước sau thời điểm 1990, sớm hơn một chút là năm 1986 hoặc muộn hơn một chút là năm 1995.
Nhà phê bình Nguyễn Hoài Nam tập trung phân tích những thành tựu của các nhà văn Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài, trong đó khẳng định văn học của người Việt Nam, người gốc Việt ở nước ngoài vừa đi rất sâu vào những vấn đề của quá khứ và truyền thống Việt, lại vừa mở rất rộng đến những vấn đề của mọi quốc gia dân tộc trong thời đại hội nhập, toàn cầu hóa. Bộ phận văn học ấy xứng đáng được ghi nhận và nghiên cứu cụ thể hơn nữa, về mọi phương diện cấu thành của nó…
Tổng kết hội thảo, nhà lý luận phê bình Nguyễn Đăng Điệp, Chủ tịch Hội đồng Lý luận phê bình, Hội Nhà văn Việt Nam cho biết, cùng với các tham luận gửi về Ban tổ chức, tại hội thảo đã có 7 tham luận được trình bày, 5 ý kiến phát biểu. Nhiều ý kiến nhận định, văn học sau 1975 đã mở ra những ngả đường sáng tạo mới. Đội ngũ nhà văn đã có những đổi mới trong nhận thức, trong tư duy, trong bút pháp. Nhiều ý kiến, tham luận sâu về chuyên môn sáng tác, lý luận phê bình. Còn có những vấn đề hội thảo đặt ra nhưng chưa được tập trung thảo luận sâu, cần tiếp tục được quan tâm bàn thảo trong thời gian tới...
Nguồn: https://cand.com.vn/Chuyen-dong-van-hoa/van-hoc-viet-nam-sau-nua-the-ky-nhieu-thanh-tuu-nhung-cung-khong-it-tran-tro-i783737/
Bình luận (0)