
Theo tư liệu tại Bảo tàng Phòng không - Không quân, ngày 29/12/1967, trong buổi làm việc với Tư lệnh và Chính ủy Quân chủng Phòng không - Không quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“...Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội rồi có thua mới chịu thua. Phải dự kiến trước tình huống này càng sớm càng tốt để có thời gian mà suy nghĩ chuẩn bị... Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua. Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội…”.
Ký ức anh hùng Nguyễn Văn Phiệt 10 phút bắn rơi 2 B-52 trên bầu trời Hà Nội (Video: Phương Mai).
Từ ngày 18 đến 29/12/1972, Chiến dịch Phòng không Hà Nội - Hải Phòng 1972 chống lại cuộc tập kích đường không chiến lược chủ yếu bằng lực lượng Không quân ném bom của Mỹ là một cuộc đọ sức quyết liệt.
Trong 12 ngày đêm chiến đấu với “pháo đài bay” B-52, Bộ đội Tên lửa phòng không đã trở thành lực lượng chủ công, góp phần quyết định vào chiến thắng lịch sử.
Đồng thời, chiến dịch cũng nói lên công sức của cả một tập thể từ lãnh đạo chỉ huy cho đến các cơ quan, đơn vị bảo đảm vũ khí khí tài tên lửa, bảo đảm hậu cần, bảo đảm chỉ huy, các kíp chiến đấu của các Tiểu đoàn hỏa lực đã trực tiếp làm nên chiến thắng lịch sử vẻ vang này.

Theo cuốn Huyền thoại Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không, trong Chiến dịch Linebacker II năm 1972 (theo cách gọi của địch), đã có 1.192 máy bay các loại cùng nhiều loại vũ khí, trang bị khí tài hiện đại khác tham gia.
Cụ thể, 193 chiếc B-52/tổng số 400 chiếc (gần 50% tổng số B-52 mà Mỹ có lúc đó) cùng với 250 tổ lái.
Không quân chiến thuật có 1.077 chiếc máy bay các loại/tổng số 3.043 chiếc (hơn 30% tổng số máy bay của Mỹ).
Tàu sân bay có 6/14 chiếc tham gia.
Đây là một cuộc huy động lực lượng chưa từng có của không quân Mỹ từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai cho một trận tập kích đường không chiến lược. Loại khí tài nguy hiểm, “bất khả chiến bại” trong niềm tin của không quân Mỹ tại Chiến dịch này chính là B-52.

Máy bay này hoạt động ở độ cao trung bình khoảng 10.000m. Mỗi chiếc là một trung tâm tác chiến điện tử với 15-25 máy gây nhiễu khác nhau. Mỗi tốp 3-5 máy bay B-52 rải thảm 60-90 tấn bom trên diện rộng, có thể bay liên tục 9 giờ không cần tiếp dầu.
Trước đó, trong cuộc chiến vào tháng 6/1967 ở Trung Đông, một số khí tài SAM-2 nguyên vẹn đã được Mỹ nghiên cứu, tìm hiểu.
Sau 4 tháng “mổ xẻ” SAM-2, Mỹ đã cho ra lò nhiều thiết bị gây nhiễu để đối phó với loại tên lửa này, trong đó có loại nhiễu nguy hiểm cho rãnh điều khiển tên lửa (nhiễu rãnh đạn).
Ở chiến trường Việt Nam, không quân Mỹ đều sử dụng các loại máy bay đã được cải tiến (gồm 4 loại B-52 D, F, G, H) để tăng số lượng bom mang theo và khả năng tác chiến điện tử.

Theo tư liệu tại triển lãm “60 năm sức mạnh Rồng lửa Việt Nam” diễn ra tại Bảo tàng Phòng không - Không quân, máy bay chiến lược tầm xa B-52 dài 48,07m, cao 12,39m, rộng 56,42m. Vận tốc lớn nhất của phương tiện này là 1.050km/h, trần bay cao nhất 16.700m, tầm bay xa nhất 18.000km, bán kính hoạt động rộng 4.000m.
Một chiếc B-52 có thể mang 18.000-30.000kg bom, đồng thời có lắp súng 12,7 ly 4 nòng, phía đuôi có thể mang 20 tên lửa Sram.
Một nhà cầm quân Mỹ từng cho rằng: “Đối phương không thể có cách chống đỡ và không còn một sinh vật nào tồn tại nổi dưới những trận mưa bom kinh khủng của loại B-52 bất khả xâm phạm”.

Trước sức mạnh áp đảo của không quân Mỹ, bộ đội tên lửa Việt Nam đã vượt qua muôn vàn gian khổ, cơ động chiến đấu trên nhiều địa hình phức tạp và phối hợp chặt chẽ với các lực lượng phòng không.
Tên lửa S-75 Dvina (SAM-2), do Liên Xô (cũ) nghiên cứu và thiết kế từ năm 1953, nhanh chóng trở thành khí tài chủ lực, được xem như đối trọng trực tiếp với pháo đài bay B-52.
Ngày 27/3/1965, Liên Xô ký hiệp nghị viện trợ quân sự, chuyển giao cho Việt Nam 54 quả tên lửa SAM-2 cùng toàn bộ khí tài kèm theo.
Ngay sau đó, bộ đội tên lửa ta được huấn luyện khẩn trương và làm chủ thành thạo loại vũ khí hiện đại này, tạo nền tảng cho những chiến công vang dội sau đó.

Trước sức mạnh công nghệ và hệ thống gây nhiễu điện tử tinh vi của không quân Mỹ, việc phát hiện và tiêu diệt B-52 trên bầu trời Hà Nội là thử thách rất lớn.
Bộ đội Tên lửa phòng không không chỉ chiến đấu bằng khí tài, mà còn phải bằng trí tuệ, bản lĩnh và những sáng tạo táo bạo ngay tại trận địa.
Chính trong hoàn cảnh thiếu thốn đạn dược, bịt kín bởi nhiễu và đối mặt với đối thủ được mệnh danh “bất khả xâm phạm”, các kíp chiến đấu của ta đã đúc rút ra nhiều cách đánh độc đáo, biến lưới lửa phòng không thành nỗi kinh hoàng cho bất cứ máy bay nào xâm phạm.
Ngắm nhìn những hiện vật tại Bảo tàng Phòng không - Không quân, AHLLVTND, Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt (Tiểu đoàn trưởng chỉ huy kíp chiến đấu bắn rơi 4 chiếc B-52 trong Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không) vẫn nhớ như in khoảnh khắc pháo đài bay nổ tung trên bầu trời Thủ đô.
Chia sẻ với phóng viên báo Dân trí, vị tướng 87 tuổi mô tả: Nhiễu bịt kín cả ra đa, không chỉ riêng của B-52 mà còn nhiễu từ EB-66, F-4… (các máy bay đi theo), cộng hưởng nhiễu từ ngoài biên giới nước ta thả vào.
Nếu không có chiến thuật cụ thể, Quân chủng Phòng không - Không quân rất khó để xác định chính xác loại máy bay muốn tìm trên ra đa.
Về cách điều khiển tên lửa SAM-2, ông cho biết có hai phương pháp chủ yếu.
Thứ nhất là cách đánh “vượt trước nửa góc”, tức phát sóng nhanh, khi gặp đúng dải nhiễu của B-52 thì kíp chiến đấu chỉ theo dõi không quá 10 giây, lập tức tắt ra đa và phát lệnh phóng tên lửa.

Thứ hai là phương pháp “ba điểm có quang học chỉ chuẩn”, trong đó trắc thủ trên xe điều khiển bám sát mục tiêu, phối hợp với chỉ chuẩn từ các trắc thủ quang học để định hướng chính xác.
“Khi phát hiện dải nhiễu trên ra đa, nếu chưa xác định được máy bay cần tìm, kíp chiến đấu sẽ gạt một chiếc công tắc đặc chế từ trước.
Khi đó, quả đạn vẫn nằm trên bệ nhưng sóng dẫn hướng đã xuất hiện trên màn hình ra đa của địch. Các máy bay hộ tống B-52 tưởng rằng chuẩn bị bị bắn hạ nên lập tức tản đội hình.
Riêng B-52 theo lệnh vẫn giữ đường bay thẳng, vì vậy trên ra đa hiện lên một vệt nhiễu rất phẳng và mịn”, Trung tướng nói.
“Khi đã xác định được B-52, phải bám sát liên tục, tuyệt đối không để mất dấu. Thành công hay thất bại lúc này phụ thuộc rất lớn vào trình độ điều khiển và sự bản lĩnh của kíp chiến đấu thuộc Binh chủng Tên lửa phòng không”, Trung tướng Phiệt phân tích bên cạnh bức ảnh lưu giữ thời khắc oanh liệt của mình.
Trước bức ảnh mang tiêu đề: “Thượng úy Nguyễn Văn Phiệt, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 57, Trung đoàn Tên lửa 261 và kíp chiến đấu dùng hai quả đạn bắn rơi B-52, có một chiếc rơi tại chỗ, ngày 21/12/1972” được trưng bày tại Bảo tàng Phòng không - Không quân, ông nói: “Lúc đó tôi đang kiểm điểm lại kíp chiến đấu trong trận đánh vừa rồi. Giờ nhìn lại, có đồng đội đã hy sinh, có người còn sống ở Hà Nội”.

Đêm 20/12/1972, “cơn sốt” thiếu đạn bất ngờ ập đến với Tiểu đoàn 57 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt chỉ huy, cũng như nhiều tiểu đoàn tên lửa khác trên mặt trận Hà Nội.
Đến đợt chiến đấu thứ ba trong đêm, Tiểu đoàn 57 mới được lệnh xuất kích. Lúc 5h, báo động từ Sở chỉ huy Đoàn tên lửa Thành Loa truyền xuống các trận địa. Chỉ 5 phút sau, toàn tiểu đoàn đã vào cấp sẵn sàng chiến đấu.
Trên bảng tiêu đồ 9x9, những chấm mục tiêu dần hiện lên. Kiểm tra lại kho đạn, toàn tiểu đoàn chỉ còn ba quả tên lửa trên bệ phóng trong khi xe tiếp đạn vẫn chưa kịp trở về. Trong tình thế cam go, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt hạ quyết tâm: mỗi quả tên lửa phải hạ một B-52.
Theo đường chì tiêu đồ, tốp mục tiêu mang số hiệu 318 lao nhanh vào vùng trời Hà Nội. Trên cả đài 1 và đài ra đa bổ trợ đều hiện rõ tín hiệu, xác định chắc chắn là B-52, không cần áp dụng chiến thuật dò tìm.
Tiểu đoàn trưởng ra lệnh cho hai đài chọn dải nhiễu so sánh, xác định tính chất giải nhiễu. Kíp trắc thủ nhanh chóng khoanh đúng dải nhiễu của B-52, bám sát liên tục, sẵn sàng chờ lệnh.

Khi mục tiêu vào đúng cự ly, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt ra lệnh đanh thép:
“Phóng!”
Ngay lập tức, sỹ quan điều khiển Nguyễn Đình Kiên nhấn nút khai hỏa.
Nhưng khi ấn nút đạn không rời bệ phóng. Tiểu đoàn trưởng lệnh phóng quả đạn thứ 2, khi rời bệ đã nhìn rõ trên bàn hiện sóng, tín hiệu đạn đến cự ly 28km.
Đạn nổ!
Cả kíp trắc thủ đồng thanh hô: “Nổ! Tiêu diệt mục tiêu”. Lập tức trắc thủ báo cáo: “Mục tiêu bốc cháy ở hướng Tây-Nam” (lúc đó là 5h09).
Chưa kịp họp rút kinh nghiệm sau trận đánh đầu tiên, tiếng chiến sĩ tiêu đồ lại vang lên: “B-52, cự ly 45 km!”.

Ngay lập tức, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt ra lệnh cho hai đài chọn dải nhiễu và so sánh. Chỉ sau một phút, kíp chiến đấu đã khóa chặt mục tiêu ở cự ly 30 km. Trong giây phút căng thẳng, Thượng úy Nguyễn Văn Phiệt động viên đồng đội:
“Cố gắng lên! Còn một quả đạn cuối, chúng ta phải đổi bằng một B-52”.
Lệnh phát sóng được đưa ra, mục tiêu hiện rõ ở cự ly 29km.
Mệnh lệnh dứt khoát: “Phóng!”.
Quả đạn cuối cùng lao thẳng vào khoảng không đen đặc, trên màn hiện sóng hai tín hiệu tiến sát nhau, rồi bất ngờ lóe sáng. Một tiếng nổ dữ dội xé toạc bầu trời.
Kíp chiến đấu đồng thanh hô vang: “Mục tiêu bị tiêu diệt!”. Ngay sau đó, trắc thủ báo cáo: “Mục tiêu bốc cháy, rơi tại chỗ!”.
Chiếc B-52 trong tốp số 532 đã trúng đạn, rơi xuống khu vực chợ Thá, gần núi Đôi, lúc 5h19 ngày 21/12/1972. Chỉ trong vòng 10 phút, từ 5h09 đến 5h19, Tiểu đoàn 57 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt chỉ huy đã dùng hai quả đạn đánh hạ liên tiếp hai pháo đài bay khổng lồ.

Sáng 21/12/1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp gọi điện xuống Sư đoàn phòng không 361.
“Cả nước đang hướng về Hà Nội! Toàn thế giới đang hướng về Hà Nội! Từng giờ từng phút Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương theo dõi cuộc chiến đấu của Hà Nội. Vận mệnh của Tổ quốc đang nằm trong tay các chiến sĩ phòng không bảo vệ Hà Nội”, Đại tướng nói.
Theo thông tin từ Bảo tàng Phòng không - Không quân, trong chiến dịch phòng không tháng 12/1972, Quân chủng Phòng không - Không quân đã bắn rơi 53 trong số hàng trăm chiếc máy bay các loại của Mỹ.
Lực lượng nòng cốt trong cuộc đối đầu với không quân chiến lược Mỹ suốt 12 ngày đêm (12/1972) là bộ đội Tên lửa, đã bắn rơi 29 trên tổng số 34 máy bay B-52 (16 chiếc rơi tại chỗ).
Thượng úy Nguyễn Văn Phiệt, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 57, Trung đoàn tên lửa 261 chỉ huy kíp chiến đấu trong chiến dịch đã bắn rơi 4 máy bay B-52 (2 chiếc rơi tại chỗ).
Khoảnh khắc biết tin tại chiến trường rằng “Hiệp định Paris được ký kết”, Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt cho biết mình vui mừng khôn xiết.
“Tôi chỉ là một cá nhân nhỏ bé trong tập thể. Điều quan trọng nhất là luôn nghĩ về tập thể, anh em phải đoàn kết, các đơn vị, các dân tộc phải đoàn kết với nhau. Chính sức mạnh đoàn kết ấy đã mang lại chiến thắng vẻ vang này”, ông bày tỏ.

Suốt những năm tháng kháng chiến ác liệt, ông đã trải qua 3 năm ăn Tết xa nhà. Kết thúc Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không”, người lính chỉ huy ấy tự hào mang chiến công lẫy lừng trở về quê hương Hưng Yên.
Trong chiến đấu gian khổ ác liệt, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của bộ đội Tên lửa Phòng không được phát huy cao độ.
Nhiều kíp chiến đấu thông minh, sáng tạo, lập công xuất sắc, nhiều tấm gương chiến đấu kiên cường, hy sinh dũng cảm của các trắc thủ, sĩ quan Tên lửa đã làm ngời sáng phẩm chất cao quý bộ đội Cụ Hồ trong sự nghiệp bảo vệ bầu trời thiêng liêng của Tổ quốc.

Nguồn: https://dantri.com.vn/khoa-hoc/anh-hung-nguyen-van-phiet-va-ky-uc-10-phut-ban-roi-2-b-52-tren-bau-troi-ha-noi-20250825100908538.htm
Bình luận (0)