THÁI NGUYÊN Để chè trung du đạt chuẩn hữu cơ mang đậm đà hương vị 'tiền chát hậu ngọt' đòi hỏi phải cung cấp dinh dưỡng dồi dào và được cây chè hấp thụ hiệu quả.
THÁI NGUYÊN Để chè trung du đạt chuẩn hữu cơ mang đậm đà hương vị 'tiền chát hậu ngọt' đòi hỏi phải cung cấp dinh dưỡng dồi dào và được cây chè hấp thụ hiệu quả.
Anh Nguyễn Thành Dương - Giám đốc HTX chè trung du Tân Cương. Ảnh: Quang Linh.
Kiên trì với dòng chè trung du cổ
Để bảo tồn dòng chè trung du cổ đã tạo nên hồn cốt của vùng chè Tân Cương (TP Thái Nguyên), anh Nguyễn Thành Dương - Giám đốc HTX chè trung du Tân Cương đã dành rất nhiều tâm huyết để thử nghiệm các biện pháp sinh học nhằm ngăn chặn thoái hoá đất, phòng trừ sinh vật gây hại và nâng cao sức khoẻ cây trồng.
Anh Dương sinh ra, lớn lên ở chính vùng chè Tân Cương nên mọi kỹ thuật trồng, chăm sóc cây chè đều được anh nắm vững. Từ năm 2005, khi nhiều hộ dân nơi đây phá bỏ diện tích chè trung du già cỗi để chạy theo các giống chè lai cho năng suất cao thì anh lại có cách nghĩ khác khi quyết định giữ lại diện tích chè trung du của gia đình để cải tạo, chăm sóc.
“Giống chè trung du cổ có nguồn gốc ở Phú Thọ đã được trồng tại Tân Cương từ những năm đầu của thế kỷ trước. Nhờ hợp với khí hậu và thổ nhưỡng nên cây chè trung du phát triển tốt và tạo ra hương vị tiền chát hậu ngọt vang danh khắp ba miền. Tuy nhiên, chè trung du nhiều năm tuổi nếu không chăm sóc tốt sẽ dễ bị nấm rễ khiến năng suất giảm và cây có thể bị chết.
Để chữa bệnh này, người dân phải tẩy độc tố trong đất, đưa chế phẩm sinh học phục hồi rễ và chăm sóc bằng cách bón phân hữu cơ. Việc này đòi hỏi nông dân phải kiên trì vì quá trình phục hồi có thể kéo dài hàng năm trời”, anh Dương chia sẻ.
Du khách quốc tế thích thú với vùng chè hữu cơ của HTX chè trung du Tân Cương. Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Học hỏi nhiều mô hình cũng như tham khảo ý kiến từ các chuyên gia, anh Dương xác định việc chuyển đổi sang sản xuất hữu cơ là con đường để chấn hưng dòng chè trung du cổ tại Tân Cương. Đến nay, HTX chè trung du Tân Cương đã có 5ha chè đạt chứng nhận hữu cơ, 15ha đạt chứng nhận VietGAP và đang từng bước chuyển đổi theo tiêu chuẩn hữu cơ.
“Chứng nhận hữu cơ là sự bảo đảm cho sức khỏe của người tiêu dùng, đáp ứng mong muốn của khách hàng về các sản phẩm sạch, an toàn. Tuy nhiên, đối với sản phẩm chè thì sạch thôi là không đủ mà phải phát huy được hương, vị tiền chát hậu ngọt của giống trung du cổ mới đủ sức níu chân giới sành chè”, Giám đốc HTX chè trung du Tân Cương trăn trở.
Kết hợp bón gốc và bón lá để chất lượng bứt phá
Sau khi áp dụng nhiều mô hình thử nghiệm bón phân hữu cơ, anh Dương đúc kết: “Để cây chè canh tác hữu cơ bứt phá về chất lượng, cần thực hiện bón gốc kết hợp bón lá”.
Hiện nay, HTX chè trung du Tân Cương sử dụng phân bón hữu cơ truyền thống và phân bón hữu cơ vi sinh kết hợp phân bón lá công nghệ nano.
Phân bón hữu cơ truyền thống có nguồn gốc từ đạm cá, giun trùn quế, đỗ tương, phân xanh từ các loại cây lá trong tự nhiên. Đây là loại phân có đầy đủ các chất đa, trung, vi lượng và các amino acid. Các thành phần dinh dưỡng này vô cùng cần thiết cho cây mà các loại phân hoá học không có được.
Loại phân này được chế biến bằng cách ủ truyền thống trong một khoảng thời gian dài. Sau khi đã hoai mục đạt yêu cầu sẽ được mang bón cho cây chè vào những giai đoạn phát triển nhất định của cây.
Các phụ phẩm nông nghiệp được anh Dương tận dụng tối đa làm phân bón hữu cơ. Ảnh: Quang Linh.
Phân bón hữu cơ vi sinh có chứa trên 15% chất hữu cơ và các vi sinh vật có ích với mật độ phù hợp. Các nhóm vi sinh vật gồm vi sinh vật phân giải hữu cơ, vi sinh vật cố định đạm, vi sinh vật lý sinh, vi sinh vật đối kháng, vi sinh vật phân huỷ xenlulo…
Phân hữu cơ vi sinh có chứa các vi sinh vật là nấm đối kháng giúp phòng trừ nấm bệnh, tăng độ phì nhiêu cho đất. Các chế phẩm có chứa vi sinh vật làm tăng khả năng trao đổi chất trong cây, nâng cao sức đề kháng và chống chịu bệnh cho cây, giúp tăng chất lượng búp chè khi thu hoạch.
Đặc biệt, HTX đang sử dụng phân bón hữu cơ ứng dụng công nghệ nano để bón lá. Loại phân bón hữu cơ sinh học có nguồn gốc thảo mộc gồm các thành phần chính như Axit humic, Axit Fulvic, pHH20… Đây là loại phân bón chuyên giải độc và cải tạo đất, đẩy nhanh quá trình lấy lại cân bằng cho hệ sinh thái. Các kim loại nặng tồn dư trong đất như lân, clo, natri, sắt, đồng, mangan sẽ được chuyển hoá, làm giảm độ chua, kích thích sự phát triển của tất cả các vi sinh vật trong đất, góp phần phục hồi sự tơi xốp của đất.
Để giảm công lao động và tăng hiệu quả hấp thụ cho cây trồng, HTX chè trung du Tân Cương đã triển khai phun phân bón lá bằng hệ thống tưới tự động. Thời gian bón phân sau hái 3 - 5 ngày, lần 2 cách lần 1 từ 5 - 7 ngày và lần 3 cách lần 2 từ 5 - 7 ngày, chỉ được thu hoạch ít nhất 15 ngày sau khi bón.
Bón gốc kết hợp bón lá giúp thời gian được thu hái rút ngắn dần sau mỗi lứa. Đặc biệt, rễ chùm và rễ tơ phát triển mạnh. Búp có độ dày đồng đều. Sau khi thu hái, nước chè có màu xanh vàng, trong, thơm đậm tự nhiên, vẹn nguyên hương vị “tiền chát hậu ngọt”.
Hiệu quả lớn, nhưng hiện nay cách bón phân kết hợp vẫn chưa được áp dụng rộng rãi do chi phí cao. Tại HTX chè trung du Tân cương, 1 sào (360m2) chè tôm nõn có chi phí đầu tư khoảng 1,2 triệu đồng, con số này có thể lên tới trên 1,5 triệu đồng mỗi sào đối với diện tích chè đinh. Điều này đòi hỏi người làm chè phải có sự kiên trì, không vội vàng muốn thu lợi nhuận cao mới có thể sản xuất hữu cơ bền vững.
Theo đánh giá của các thành viên HTX, khi chuyển đổi sang sản xuất chè hữu cơ, hệ sinh thái trên mỗi nương chè được cải thiện đáng kể, đất đai phì nhiêu. Ngoài ra, nông dân cũng yên tâm hơn khi sản xuất, không lo ảnh hưởng đến sức khỏe, khí hậu trong lành.
Quỹ đất để mở rộng diện tích chè tại xã Tân Cương còn hạn chế. Ảnh: Quang Linh.
Cần cơ chế chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng chè
Cùng với anh Dương, hiện nay ở Tân Cương đã có nhiều hộ dân quay trở lại cải tạo giống chè trung du hoặc trồng mới để lan tỏa hương vị "tiền chát hậu ngọt". Để mở rộng hơn nữa diện tích canh tác chè hữu cơ, hình thành vùng sản xuất quy mô lớn, Giám đốc HTX chè trung du Tân Cương kiến nghị chính quyền địa phương có chính sách hỗ trợ người dân chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ các loại cây trồng khác kém hiệu quả sang trồng chè.
"So với các vùng chè khác trong tỉnh Thái Nguyên như Đại Từ, Đồng Hỷ thì diện tích của vùng chè Tân Cương vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân tới từ việc chuyển đổi diện tích đất lúa xen kẹt kém hiệu quả sang trồng chè chưa thực hiện được do các vị trí đề nghị chuyển đổi chủ yếu nằm trong quy hoạch khu đô thị phía tây thành phố Thái Nguyên", anh Dương cho hay.
Thời gian tới, tỉnh Thái Nguyên cần tiếp tục quy hoạch vùng sản xuất chè tập trung; đầu tư các dự án phát triển tổng thể cho vùng chè Tân Cương, đặc biệt là các nhà máy sản xuất, chế biến chè. Có cơ chế đặc thù thu hút các doanh nghiệp lớn đầu tư cho hoạt động chế biến, kinh doanh chè, nhất là vấn đề tiêu thụ.
Anh Dương đánh giá, chè là cây lâu năm nhưng lại thu hoạch lá thường xuyên nên phân nano bón lá không thể thay thế hoàn toàn cho phần bón gốc. Thời gian đầu khi sử dụng phân bón lá cây trồng chưa thể thích nghi và hấp thụ hiệu quả ngay, tránh bón vào thời điểm mưa nhiều. Lúc này bà con cần đặc biệt chú ý tới các đối tượng sâu bệnh hại, nhất là tại khu vực miền Bắc có thời tiết thất thường.
Nguồn: https://nongsanviet.nongnghiep.vn/bi-kip-bon-phan-huu-co-cho-dong-che-trung-du-co-d743866.html
Bình luận (0)