
Thế nhưng, từ phòng thí nghiệm ra thị trường vẫn là một hành trình không dễ dàng.
Công ty cổ phần Dược phẩm Thái Minh là một trong số ít doanh nghiệp tư nhân kiên trì gắn bó với sản phẩm khoa học công nghệ trong suốt hơn một thập kỷ qua ở Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Các sản phẩm bắt nguồn từ kết quả nghiên cứu của các viện, trường chuyển giao, đều phát triển và thành công trên thị trường. Những sản phẩm này sau khi chuyển giao có doanh thu từ 200-300 tỷ đồng/năm, riêng phần thuế VAT nộp ngân sách đã lên tới 20-30 tỷ đồng/năm, chưa kể thuế thu nhập doanh nghiệp và các đóng góp khác. Như vậy, từ một đề tài nghiên cứu có mức đầu tư ban đầu khiêm tốn, nếu được thương mại hóa đúng cách có thể đem lại lợi ích lớn.
Tuy nhiên, trong 5 năm qua, công ty không tiếp cận thêm được bất kỳ công trình nghiên cứu nào để chuyển giao. “Không phải vì không muốn, mà vì vướng quá nhiều thủ tục, đặc biệt là định giá”. Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty Nguyễn Quang Thái chia sẻ. Theo quy định hiện hành, việc xác định giá trị công nghệ để chuyển giao phải trải qua nhiều bước, bao gồm thẩm định tài sản trí tuệ, tính toán chi phí đầu tư, đánh giá hiệu quả kinh tế…
Điều này khiến không ít nhà khoa học lúng túng, trong khi doanh nghiệp lại gặp khó trong việc thỏa thuận giá phù hợp. Tâm lý e ngại về trách nhiệm, thủ tục kiểm toán và những ràng buộc pháp lý liên quan đến tài sản công khiến quá trình thương lượng giữa bên nghiên cứu và bên tiếp nhận kéo dài, thậm chí bị đình trệ. Đã có những trường hợp phải mất hàng năm chỉ để hoàn tất khâu định giá.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Nhi Công, Viện Sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho biết, cơ quan nghiên cứu muốn bù đắp chi phí, doanh nghiệp muốn giá thấp. Thế nên, việc định giá trở thành bài toán đau đầu. Người nghiên cứu thì định giá dựa trên thời gian bỏ công, còn doanh nghiệp tính theo chi phí thị trường và khả năng tiêu thụ.
Kết quả là nhiều đàm phán rơi vào bế tắc. Cùng với đó, quy trình hành chính liên quan đến chuyển giao công nghệ còn phức tạp, tốn nhiều thời gian cho các thủ tục hành chính. Việc một sản phẩm muốn ra thị trường phải “xin ý kiến” nhiều cấp, qua nhiều khâu khiến thời gian kéo dài, ảnh hưởng đến cơ hội tiếp cận thị trường. Tâm lý “không muốn rủi ro” cũng là một yếu tố khiến nhiều nhà khoa học không chủ động tìm hiểu doanh nghiệp để giới thiệu kết quả nghiên cứu. Nhiều người có sản phẩm tốt nhưng lo ngại, lúng túng không biết chuyển giao cái nào cho đúng quy định pháp luật.
Chuyển giao sản phẩm hay chuyển giao quy trình,… vì mỗi lựa chọn lại liên quan đến một quy định pháp luật khác nhau như Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Ngân sách, Luật Đầu tư công... Một vấn đề nữa khiến thị trường chuyển giao công nghệ vẫn chưa phát triển đó là thiếu minh bạch và cơ hội lựa chọn. Doanh nghiệp không biết tìm ai để mua sản phẩm, còn nhà khoa học cũng không có nhiều lựa chọn về đối tác. Trong khi đó, một thị trường công nghệ đúng nghĩa phải có cơ chế, chào hàng, đặt giá, cạnh tranh, lựa chọn.
Để vượt qua những nút thắt trong thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu, theo ông Nguyễn Quang Thái, trước tiên cần thay đổi tư duy về hiệu quả đầu tư vào nghiên cứu. Không thể yêu cầu một đề tài tiêu 1 tỷ thì phải thu lại ngay 1-2 tỷ khi chuyển giao. Giá trị thật sự nằm ở chặng sau, khi sản phẩm ra được thị trường, mang lại doanh thu, tạo việc làm, mở rộng vùng nguyên liệu và đặc biệt là đóng góp ngân sách qua thuế. Tiếp đó, cần sớm hình thành một sàn giao dịch khoa học công nghệ quốc gia, nơi các công trình nghiên cứu được công khai, các doanh nghiệp có thể tiếp cận, đấu giá, đặt mua, giống như một “sở giao dịch tài sản trí tuệ”. Xây dựng cơ chế định giá linh hoạt, minh bạch, tránh để đơn vị nghiên cứu vừa làm vừa lo, vừa là người xây dựng vừa là người bị giám sát.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Nhi Công cho rằng, chính sách tài chính cần thiết kế lại để tạo động lực thật sự cho nhà khoa học, tăng tỷ lệ hưởng quyền tác giả, miễn hoặc giảm thuế thu nhập cá nhân trong lần đầu thương mại hóa. Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Tô Mai Hương, Trường đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, cần tăng cường vai trò liên kết ba nhà gồm Nhà nước-nhà trường-doanh nghiệp. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo thể chế, hỗ trợ tài chính ban đầu cho nghiên cứu nền tảng, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho chuyển giao công nghệ. Doanh nghiệp tham gia từ đầu vào quá trình nghiên cứu, chia sẻ nhu cầu thị trường, giúp định hướng đề tài có tính ứng dụng cao và sẵn sàng đầu tư phát triển sản phẩm. Trường đại học, viện nghiên cứu là nơi cung cấp tri thức, nhân lực, công nghệ, đóng vai trò nghiên cứu, phát triển và đào tạo đội ngũ phục vụ chuyển giao.
Bà Nguyễn Đặng Tuấn Minh, Công ty cổ phần KisStartup nhấn mạnh, cần tăng vai trò và số lượng các tổ chức trung gian, doanh nghiệp kết nối công nghệ, đóng vai trò “cầu nối” giữa nhà khoa học và thị trường, không chỉ giúp doanh nghiệp tìm được công nghệ phù hợp mà còn giúp nhà khoa học hiểu rõ nhu cầu ứng dụng thực tiễn, từ đó định hướng nghiên cứu theo “đơn hàng” cụ thể hơn. Không phải nhà khoa học nào cũng giỏi kinh doanh, và không phải doanh nghiệp nào cũng hiểu công nghệ. Việc hình thành các đơn vị có năng lực tư vấn, định giá, kết nối công nghệ, đặc biệt trong các trường đại học sẽ là giải pháp cần thiết để thu hẹp khoảng cách giữa nghiên cứu và thị trường.
Nguồn: https://nhandan.vn/bien-cong-trinh-nghien-cuu-thanh-gia-tri-thuc-tien-post914711.html
Bình luận (0)