Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Chiến lược chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn

Việt NamViệt Nam28/03/2025


Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và nhiều ngân hàng trung ương khác có cách tiếp cận tương đối giống nhau trong việc hoạch định chính sách tiền tệ, đó là những cách tiếp cận mang tính hệ thống, minh bạch và hướng tới tương lai. Những cách tiếp cận này chia sẻ một số đặc điểm chính về mục tiêu của chính sách tiền tệ được xác định rõ ràng và công bố công khai...

Các ngân hàng trung ương lớn cũng có xu hướng rất minh bạch trong giải thích các quyết định chính sách và lý do đằng sau những quyết định đó cho công chúng. Sự minh bạch như vậy tăng cường hiệu quả của chính sách tiền tệ bằng cách giúp các hộ gia đình và doanh nghiệp hình thành kỳ vọng về các điều kiện kinh tế và tài chính trong tương lai, là những kỳ vọng ảnh hưởng đến quyết định chi tiêu và đầu tư của họ. Đồng thời, sự minh bạch cũng giúp các quốc gia giám sát trách nhiệm của ngân hàng trung ương trong việc thực hiện những mục tiêu đã đề ra.

Do chính sách tiền tệ có độ trễ trong tác động đến nền kinh tế, Fed và các ngân hàng trung ương lớn khác áp dụng cách tiếp cận hướng tới tương lai. Các ngân hàng trung ương không chỉ xem xét những điều kiện kinh tế hiện tại mà còn dự đoán sự phát triển của nền kinh tế và các rủi ro xung quanh triển vọng đó. Mỗi năm bốn lần, như một phần của cách tiếp cận hướng tới tương lai của Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC), mỗi thành viên của Hội đồng Thống đốc và từng chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang đều xây dựng và trình bày dự báo của mình về triển vọng tăng trưởng GDP thực (đã điều chỉnh lạm phát), tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát, cùng với đánh giá về lộ trình của lãi suất quỹ liên bang được coi là có khả năng cao nhất để thúc đẩy các kết quả phù hợp với mục tiêu của FOMC. 

Bên cạnh đó, dự báo của đội ngũ nhân viên Hội đồng Dự trữ Liên bang và các phân tích khác được cung cấp cho FOMC sẽ được công bố cho công chúng sau một độ trễ năm năm. Các dự báo của hầu hết các ngân hàng trung ương đều mang tính chất phán đoán - nghĩa là chúng không được tạo ra bởi một mô hình duy nhất, mà thay vào đó phản ánh sự đánh giá của các nhà hoạch định chính sách hoặc nhân viên, thường dựa trên nhiều mô hình và nguồn thông tin khác nhau.

Những dự báo này được công bố hàng quý trong Bản tóm tắt dự báo kinh tế (SEP). Các dự báo từ SEP gần đây nhất cũng được đưa vào Báo cáo Chính sách tiền tệ bán niên trình lên Quốc hội. Tất nhiên, các dự báo kinh tế luôn đi kèm với mức độ bất định đáng kể. Một cách mà FOMC nhấn mạnh sự bất định này là cung cấp thông tin trong SEP về mức độ sai số của các dự báo trong quá khứ. Trong những cuộc họp của FOMC, các nhà hoạch định chính sách thảo luận về quan điểm cá nhân của họ và đi đến đồng thuận về quyết định chính sách phù hợp.

Hầu hết các ngân hàng trung ương lớn khác cũng công bố dự báo về lạm phát và những biến số kinh tế vĩ mô khác. Một ví dụ điển hình là Báo cáo lạm phát của Ngân hàng Anh, cung cấp dự báo về tăng trưởng kinh tế, thị trường lao động và lạm phát cùng với đánh giá về sự bất định liên quan đến từng dự báo. Việc công bố dự báo tăng cường tính minh bạch, một phần vì mục tiêu của các ngân hàng trung ương thường được nêu rõ về lạm phát và việc làm trong trung hoặc dài hạn.

Chiến lược chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn

Khi thảo luận về chính sách tiền tệ và xây dựng dự báo cho nền kinh tế, các nhà hoạch định chính sách của Fed thường xuyên tham khảo các quy tắc chính sách. Những quy tắc này đề xuất mức lãi suất chính sách dựa trên ước tính về độ lệch của: (1) Lạm phát so với mục tiêu của ngân hàng trung ương và (2) Sản lượng so với mức sử dụng tối đa nguồn lực. Tuy nhiên, những quy tắc này tự chúng không bao gồm các hiệu ứng phản hồi mà thay đổi lãi suất chính sách sẽ có đối với tăng trưởng, thị trường lao động và lạm phát. Bằng cách tích hợp quy tắc chính sách vào một mô hình kinh tế vĩ mô, có thể xem xét các đề xuất về lãi suất chính sách có tính đến những hiệu ứng phản hồi này. Trong nhiều năm, FOMC đã thường xuyên xem xét cả đề xuất từ các quy tắc chính sách đơn giản và những mô phỏng có tính đến hiệu ứng phản hồi (Các tài liệu này được công bố cùng với biên bản của các cuộc họp FOMC sau một độ trễ năm năm). Các ngân hàng trung ương lớn khác cũng sử dụng các quy tắc chính sách theo cách tương tự, nhưng cho đến nay, không có ngân hàng trung ương lớn nào đặt lãi suất chính sách một cách máy móc dựa trên các đề xuất của quy tắc như vậy. 

Về mặt mục tiêu chính sách, Fed và các ngân hàng trung ương lớn khác công khai và giải thích rõ ràng những mục tiêu chính sách tiền tệ của họ. Trong Đạo luật Dự trữ Liên bang, Quốc hội yêu cầu Fed thiết lập chính sách tiền tệ nhằm thúc đẩy "việc làm tối đa, giá cả ổn định và lãi suất dài hạn hợp lý". Năm 2012, FOMC đã thông qua Tuyên bố về Mục tiêu dài hạn và Chiến lược Chính sách tiền tệ, được xác nhận lại vào tháng 1 hằng năm. Tuyên bố này chỉ ra rằng, FOMC đánh giá mức lạm phát 2% (được đo lường bằng tỷ lệ thay đổi hằng năm của chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân) là phù hợp nhất với nhiệm vụ theo luật định của Fed trong dài hạn. Lạm phát mục tiêu của FOMC mang tính đối xứng, nghĩa là việc lạm phát kéo dài cao hơn hoặc thấp hơn 2% đều không đạt mong muốn. Tuyên bố cũng cho thấy FOMC cố gắng giảm thiểu sự chênh lệch của việc làm so với mức tối đa mà Ủy ban đánh giá. Đồng thời, tuyên bố thừa nhận rằng mức việc làm tối đa chủ yếu được quyết định bởi các yếu tố phi tiền tệ và thay đổi theo thời gian (Các thành viên FOMC cung cấp đánh giá của họ về tỷ lệ thất nghiệp bình thường trong dài hạn mỗi quý trong SEP). 

Các ngân hàng trung ương lớn khác trên thế giới cũng có nhiệm vụ rộng hơn được quy định theo luật (hoặc trong trường hợp của Ngân hàng Trung ương Châu Âu - ECB, theo hiệp ước) và có mục tiêu cụ thể về lạm phát, nhưng giống như Fed, họ không đặt ra các mục tiêu cụ thể cho những chỉ tiêu kinh tế khác. Ví dụ, hiệp ước thành lập ECB liệt kê ổn định giá cả là mục tiêu chính, nhưng cũng chỉ đạo ECB đóng góp vào việc đạt được các mục tiêu của Liên minh Châu Âu, bao gồm việc làm đầy đủ và tăng trưởng kinh tế cân bằng. ECB định nghĩa ổn định giá cả là mức lạm phát hằng năm dưới 2% và đặt mục tiêu duy trì lạm phát "dưới, nhưng gần 2% trong trung hạn". Trên thực tế, tất cả các ngân hàng trung ương lớn đều tìm cách đạt được ổn định giá cả trong khi tránh các sai lệch lớn về việc làm và sản lượng.

Cách tiếp cận này đôi khi được gọi là lạm phát mục tiêu "linh hoạt". Ngay cả các ngân hàng trung ương có nhiệm vụ được quy định chỉ liên quan đến lạm phát cũng không bắt buộc phải đưa lạm phát trở lại mục tiêu trong thời gian ngắn nhất có thể và có thể xem xét các mục tiêu kinh tế khác (chẳng hạn như việc làm). Trong một mô hình kinh tế vĩ mô phổ biến, cách tiếp cận như vậy giảm thiểu đáng kể các tổn thất phúc lợi liên quan đến lạm phát mà không gây ra những tổn thất lớn về phúc lợi do sự chệch hướng lớn so với mức việc làm toàn dụng. Các ngân hàng trung ương có lạm phát mục tiêu bao gồm Cục Dự trữ Liên bang (Fed), Ngân hàng Anh, Ngân hàng Nhật Bản, Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB), Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ và nhiều ngân hàng trung ương khác.

Cuối cùng, Fed và các ngân hàng trung ương lớn khác trên thế giới thường xuyên công bố các quyết định chính sách của họ cho công chúng và giải thích lý do đằng sau những quyết định đó. Ví dụ, sau tám cuộc họp định kỳ mỗi năm, FOMC công bố một quyết định chính sách và đánh giá về các diễn biến kinh tế hiện tại cũng như triển vọng kinh tế (FOMC đã công bố tuyên bố đầu tiên sau cuộc họp vào năm 1994 và bắt đầu đưa ra tuyên bố sau mỗi cuộc họp từ năm 1999. Các tuyên bố, biên bản và bản ghi cuộc họp báo có sẵn trên trang web của Hội đồng tại https://www.federalreserve.gov/monetarypolicy/fomccalendars.htm). Sau các cuộc họp này, Chủ tịch Fed tổ chức họp báo để cung cấp thêm thông tin và trả lời câu hỏi. Biên bản chi tiết của các cuộc họp FOMC được công bố ba tuần sau đó; bản ghi chép đầy đủ và tài liệu cuộc họp được công bố sau năm năm. Hai lần mỗi năm, Fed gửi Báo cáo Chính sách tiền tệ tới Quốc hội và Chủ tịch Fed điều trần trước các ủy ban Quốc hội về báo cáo này. 

Các ngân hàng trung ương trên thế giới cũng sử dụng nhiều công cụ truyền thông tương tự. Ví dụ, Ngân hàng Anh, Ngân hàng Nhật Bản, ECB, Ngân hàng Dự trữ Úc và Ngân hàng Trung ương Thụy Điển cung cấp biên bản chi tiết của mỗi cuộc họp chính sách, thường trong vòng một tháng sau cuộc họp. Hầu hết các ngân hàng trung ương lớn đều tổ chức những cuộc họp báo thường kỳ, nơi một nhà hoạch định chính sách cấp cao giải thích các quyết định chính sách và trả lời câu hỏi từ giới truyền thông; các nhà hoạch định chính sách của họ cũng điều trần trước cơ quan lập pháp và phát biểu trước công chúng. Ngân hàng Nhật Bản, giống như FOMC, công bố toàn bộ biên bản các cuộc họp chính sách sau một thời gian nhất định. Ngân hàng Anh đã công bố kế hoạch sẽ công bố biên bản của các cuộc họp chính sách sau tám năm, bắt đầu từ năm 2023.

Tổng hợp lại, những thông tin chính sách của Fed cung cấp một nguồn thông tin phong phú mà các thành viên Quốc hội và công chúng có thể sử dụng để hiểu quyết định của FOMC và đánh giá tác động của chúng đối với nền kinh tế. Những thông tin này giúp đảm bảo rằng Fed chịu trách nhiệm trước công chúng. Tương tự, thông tin chính sách của các ngân hàng trung ương lớn khác giúp công chúng và những nhà quản lý hiểu được các quyết định chính sách của họ. Bằng cách giúp công chúng hiểu rõ mục tiêu và chiến lược của các ngân hàng trung ương, những thông tin chính sách này sẽ giúp nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ.



Nguồn: https://baodaknong.vn/chien-luoc-chinh-sach-tien-te-cua-cac-ngan-hang-trung-uong-lon-247571.html

Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

Ngắm phố biển Nha Trang từ trên cao
Điểm check in cánh đồng điện gió Ea H'leo, Đắk Lắk gây bão mạng
Hình ảnh Việt Nam "Bling Bling" sau 50 năm thống nhất đất nước
Hơn 1.000 phụ nữ mặc áo dài diễu hành, xếp hình bản đồ Việt Nam tại Hồ Gươm

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm