Nhận diện rào cản
Cụ thể, mục tiêu đến 2030 được đưa ra trong Nghị quyết số 71-NQ/TW là Việt Nam có ít nhất 8 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 200 châu Á, ít nhất 1 cơ sở thuộc top 100 thế giới trong một số lĩnh vực; đến 2035, ít nhất 2 cơ sở vào nhóm 100 thế giới; đến 2045, ít nhất 5 cơ sở vào nhóm 100 thế giới.
Xét trong bối cảnh hiện tại, ThS Nguyễn Vinh San - thành viên nhóm nghiên cứu xếp hạng đại học VNUR - nhận định, mục tiêu này không phải là bất khả thi nhưng những cũng rất thách thức để đạt được.
ThS Nguyễn Vinh San lý giải, hiện nay, Việt Nam đã có một số trường lọt vào top 500 thế giới và top 200 châu Á theo QS, THE (2 Đại học Quốc gia, Trường Đại học Duy Tân, Trường Đại học Tôn Đức Thắng). Tuy nhiên, số lượng còn ít, thứ hạng chưa ổn định và phần lớn mới dừng ở nhóm 801-1.000 thế giới hoặc 301-500 châu Á.
Để từ mức xếp hạng hiện nay vươn lên top 200 châu Á và top 100 thế giới, cần sự thay đổi toàn diện, đồng bộ và đầu tư rất lớn từ chính các trường đại học và Nhà nước.
Các trường đại học của Việt Nam có lợi thế về tốc độ phát triển, chính sách hỗ trợ mới từ Đảng và Nhà nước, cùng xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; nhưng điểm xuất phát của chúng ta còn thấp.
Chia sẻ cụ thể khó khăn giáo dục đại học Việt Nam gặp phải khi muốn thực hiện mục tiêu vươn tầm xếp hạng thế giới, ThS Nguyễn Vinh San đưa ra bốn nhóm: tài chính và cơ sở vật chất; nhân lực; quản trị đại học; văn hóa học thuật và hội nhập.
Về tài chính và cơ sở vật chất: Các bảng xếp hạng quốc tế uy tín (QS, THE, ARWU) đều đánh giá cao tiêu chí công bố quốc tế, trích dẫn, nghiên cứu và mức đầu tư cho R&D. Trong khi đó, chi ngân sách cho giáo dục đại học, nghiên cứu khoa học của Việt Nam còn hạn chế, chỉ khoảng 0,4-0,5% GDP, thấp hơn nhiều so với các nước có trường đại học top 100 thế giới. Hạ tầng phòng thí nghiệm, thư viện điện tử, dữ liệu nghiên cứu còn thiếu và chưa đồng bộ.
Về đội ngũ nhân lực: Tỷ lệ giảng viên có học vị tiến sĩ còn thấp so với chuẩn quốc tế; thu nhập, cơ chế đãi ngộ chưa đủ hấp dẫn để thu hút nhân tài trong và ngoài nước; năng lực ngoại ngữ, khả năng công bố quốc tế còn hạn chế, dẫn đến số lượng và chất lượng bài báo quốc tế chưa đủ mạnh.
Về quản trị đại học: Tự chủ đại học mới ở giai đoạn khởi đầu, còn nhiều ràng buộc về tài chính, tổ chức, nhân sự; cơ chế quản trị chưa theo kịp chuẩn mực quốc tế (hội đồng trường hoạt động hình thức, thiếu quyền tự quyết thực sự); chưa có chiến lược dài hạn rõ ràng để tham gia xếp hạng quốc tế, nhiều trường còn chưa sẵn sàng công khai dữ liệu.
Về văn hóa học thuật và hội nhập: Văn hóa công bố quốc tế, tinh thần nghiên cứu khoa học chưa thực sự lan tỏa rộng rãi; hợp tác quốc tế tuy phát triển nhưng chưa bền vững, thiếu liên kết sâu trong nghiên cứu, đồng hướng dẫn, đồng công bố; các chương trình đào tạo chuẩn quốc tế, bằng kép, trao đổi sinh viên chưa đủ sức cạnh tranh.
Cần quyết tâm chính trị rất cao, nguồn lực cụ thể, cách làm đột phá
ThS Nguyễn Vinh San cho rằng, mục tiêu chỉ khả thi khi có quyết tâm chính trị rất cao đi kèm nguồn lực cụ thể và cách làm đột phá. Cụ thể, để hiện thực hóa mục tiêu Nghị quyết số 71-NQ/TW, ngành Giáo dục cần triển khai đồng bộ các giải pháp:
Thứ nhất, đầu tư trọng điểm và phân tầng hệ thống. Lựa chọn khoảng 10 đại học trọng điểm quốc gia (Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TPHCM, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Đà Nẵng, Đại học Huế, Đại học Cần Thơ, Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Kinh tế TPHCM, Đại học Kinh tế quốc dân, một số trường tư thục mạnh…) để tập trung đầu tư, tạo cơ chế và tránh đầu tư dàn trải; thiết lập cơ chế đặc thù về tài chính, nhân sự, tổ chức cho nhóm trường này.
Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ. Cần tăng nhanh tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ (ưu tiên cử đi đào tạo tại các trường top thế giới); mở rộng chương trình thu hút học giả quốc tế giảng dạy, nghiên cứu dài hạn tại Việt Nam; cải thiện thu nhập, môi trường làm việc để thu hút và giữ chân nhân tài.
Thứ ba, thúc đẩy nghiên cứu và công bố quốc tế. Theo đó, xây dựng quỹ nghiên cứu quốc gia hỗ trợ công bố trên tạp chí ISI/Scopus; phát triển phòng thí nghiệm liên ngành, trung tâm nghiên cứu xuất sắc; xây dựng cơ chế gắn nghiên cứu với doanh nghiệp, ứng dụng thực tiễn; giảm/miễn thuế cho doanh nghiệp khi đầu tư kinh phí cho nghiên cứu, hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu...
Thứ tư, đổi mới quản trị và tự chủ thông qua gỡ bỏ các rào cản hành chính trong tự chủ đại học, nghiên cứu khoa học và hợp tác doanh nghiệp; minh bạch hóa dữ liệu hoạt động, sẵn sàng tham gia xếp hạng quốc tế; ứng dụng công nghệ số trong quản trị đại học.
Thứ năm, quốc tế hóa mạnh mẽ với việc mở rộng chương trình liên kết đào tạo với các trường top 200 thế giới; khuyến khích trao đổi giảng viên, sinh viên dài hạn; thu hút sinh viên quốc tế tại các trường trọng điểm.
“Mục tiêu Nghị quyết số 71-NQ/TW đề ra là khá cao trong bối cảnh hiện tại nhưng cần thiết, phản ánh khát vọng vươn lên và hội nhập của nền giáo dục Việt Nam. Mục tiêu có khả thi hay không phụ thuộc vào quyết tâm chính trị, sự đột phá trong quản trị, mức đầu tư tài chính, đặc biệt là thay đổi văn hóa học thuật trong từng trường đại học”, ThS Nguyễn Vinh San nêu quan điểm.
Nguồn: https://giaoducthoidai.vn/dat-muc-tieu-nghi-quyet-so-71-nqtw-can-quyet-tam-nguon-luc-cach-lam-dot-pha-post747596.html
Bình luận (0)