ĐBQH. Nguyễn Thị Việt Nga. (Nguồn: Quochoi) |
Đó là quan điểm của ĐBQH. Nguyễn Thị Việt Nga, Phó Trưởng đoàn chuyên trách ĐBQH tỉnh Hải Dương, Ủy viên Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội chia sẻ với Báo Thế giới và Việt Nam, xung quanh câu chuyện Ủy ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết thông qua dự án Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số. Theo đó, mỗi cặp vợ chồng, cá nhân được quyết định về thời gian sinh con, số con.
Tránh tình trạng "già trước khi giàu"
Việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua quy định bãi bỏ giới hạn 1-2 con/cặp vợ chồng được đánh giá là thay đổi mang tính căn cơ trong chính sách dân số. Theo bà, động lực chính của sự thay đổi này là gì và đâu là những nguy cơ nếu chúng ta không điều chỉnh kịp thời?
Đúng như nhận định, việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua quy định bãi bỏ giới hạn sinh 1-2 con là một bước ngoặt căn cơ trong tư duy chính sách dân số của Việt Nam. Sự thay đổi này không chỉ mang tính kỹ thuật luật pháp mà còn là thông điệp chính trị và xã hội rõ ràng: Chúng ta đã bước sang một thời kỳ mới, với thách thức mới, đòi hỏi cách tiếp cận hoàn toàn khác so với giai đoạn “bùng nổ dân số” trước đây.
Động lực lớn nhất cho sự điều chỉnh này đến từ thực tế nhân khẩu học đã và đang thay đổi nhanh chóng. Nếu như cách đây vài thập kỷ, mối lo là dân số tăng quá nhanh thì nay, chúng ta đang đứng trước nguy cơ dân số già hóa và tỷ suất sinh giảm quá mức.
Theo số liệu mới nhất, tổng tỷ suất sinh của Việt Nam hiện dao động quanh mức 2,1 con/phụ nữ – ngưỡng cân bằng dân số thay thế. Tuy nhiên, có nhiều địa phương, đặc biệt là khu vực thành thị và phát triển kinh tế như TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, tỷ suất sinh thực tế đã giảm sâu, chỉ còn khoảng 1,3-1,5 con. Đây là mức báo động nếu nhìn vào kinh nghiệm các nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Singapore.
Chúng ta đều thấy rõ, một khi tỷ suất sinh giảm quá thấp và duy trì trong thời gian dài, thì dân số sẽ bắt đầu già hóa nhanh, lực lượng lao động co hẹp, năng suất xã hội chịu áp lực, hệ thống an sinh, đặc biệt là bảo hiểm xã hội, y tế gặp khó khăn, nền kinh tế mất dần động lực nội sinh. Đó là bài học đắt giá mà nhiều quốc gia đang phải vật lộn để đảo ngược nhưng hầu như chưa rõ sự thành công. Việt Nam không thể đi lại vết xe đó.
Vì thế, bãi bỏ giới hạn số con là bước đi đầu tiên, mở ra không gian pháp lý để tiếp cận chính sách dân số theo hướng tích cực hơn, chủ động hơn, dựa trên quyền lựa chọn của mỗi gia đình chứ không bị áp đặt bởi khẩu hiệu cứng nhắc. Tất nhiên, cần khẳng định rằng điều này không có nghĩa là chúng ta “thả nổi” chính sách dân số, mà là chuyển hướng sang “quản trị dân số” linh hoạt theo vùng, miền, giai đoạn, nơi nào sinh thấp thì khuyến khích, nơi nào sinh cao thì vẫn cần kiểm soát.
Nếu không điều chỉnh kịp thời, Việt Nam sẽ sớm rơi vào tình trạng “già trước khi giàu” nghĩa là chưa đạt đến mức thu nhập trung bình cao đã phải đối mặt với khủng hoảng cơ cấu dân số. Khi đó, nền kinh tế sẽ bị kéo chậm lại, gánh nặng an sinh tăng lên, đặc biệt là sức sáng tạo, đổi mới vốn chủ yếu đến từ lực lượng trẻ sẽ giảm sút nghiêm trọng.
Do đó, tôi đánh giá rất cao việc Quốc hội và Chính phủ đã kịp thời nhìn nhận vấn đề này và có bước điều chỉnh pháp lý phù hợp. Đây là tiền đề để các chính sách tiếp theo về khuyến sinh, hỗ trợ gia đình trẻ, phát triển nhân lực chất lượng cao… có thể được thiết kế và triển khai đồng bộ trong thời gian tới.
Trẻ em cần được thừa hưởng môi trường sống tốt nhất để phát triển. Ảnh minh họa. (Ảnh: Trương Soa) |
Tạo môi trường "an toàn, đáng sống, đáng sinh con"
Từ kinh nghiệm các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, chúng ta thấy rõ việc khuyến sinh không thể thành công nếu chỉ dừng ở lời kêu gọi. Theo bà, Việt Nam cần ưu tiên những chính sách nào để tạo dựng môi trường “an toàn, đáng sống, đáng sinh con” cho các gia đình trẻ?
Câu hỏi này chạm đúng vào cốt lõi của vấn đề. Quả thật, nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… đã triển khai chính sách khuyến sinh hàng chục năm qua, với ngân sách rất lớn và hệ thống chính sách đa tầng nhưng kết quả nhìn chung vẫn hạn chế. Một nguyên nhân sâu xa là bởi chính sách không đi vào đúng “điểm nghẽn tâm lý” và “nỗi sợ kinh tế” của các gia đình trẻ. Việt Nam nếu chỉ dừng ở khẩu hiệu “hãy sinh thêm con” mà thiếu các giải pháp đi kèm, sẽ rất khó tạo chuyển biến thực chất.
"Sinh con không phải là việc 'nên làm cho đất nước', mà là lựa chọn cá nhân, gắn với hạnh phúc gia đình. Chính sách của Nhà nước cần tạo điều kiện thực chất để quyết định ấy trở nên dễ dàng, yên tâm và tràn đầy hy vọng". |
Tôi cho rằng, nếu muốn tạo ra một môi trường thực sự “an toàn, đáng sống, đáng sinh con”, chúng ta cần xác định lại một hệ giá trị xã hội xoay quanh gia đình trẻ, trên cơ sở đó, triển khai các nhóm chính sách ưu tiên như sau:
Thứ nhất, giảm áp lực kinh tế khi sinh con và nuôi con. Đây là nỗi lo phổ biến nhất. Cần có chính sách hỗ trợ tài chính cụ thể như trợ cấp sinh con (không chỉ dừng ở mức một lần mà có thể theo năm đầu đời của trẻ), giảm thuế cho các gia đình có từ hai con trở lên, mở rộng chính sách nhà ở xã hội cho gia đình trẻ. Những hỗ trợ này tuy nhỏ nhưng giúp các cặp vợ chồng yên tâm hơn khi lên kế hoạch sinh con.
Thứ hai, phát triển hệ thống chăm sóc trẻ em công cộng, chất lượng cao. Trẻ từ 6 tháng tuổi đã cần môi trường nuôi dưỡng phù hợp. Ở các thành phố lớn, việc thiếu trường mầm non công lập, đặc biệt ở khu công nghiệp, khu chế xuất, khiến nhiều phụ nữ sau sinh phải nghỉ việc hoặc gửi con về quê cho ông bà chăm. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến ý định sinh thêm con. Nhà nước cần đầu tư mạnh vào mạng lưới trường mầm non, đặc biệt là nhóm trẻ dưới 3 tuổi.
Thứ ba, bảo vệ quyền lợi lao động nữ trong giai đoạn sinh nở và nuôi con nhỏ. Hiện nay, nhiều phụ nữ e ngại sinh con vì sợ mất cơ hội thăng tiến, bị đánh giá kém hiệu suất. Chính sách cần quy định rõ ràng hơn về bảo vệ vị trí việc làm, quyền lợi về giờ giấc linh hoạt, làm việc bán thời gian, làm việc từ xa trong thời gian nuôi con nhỏ, đặc biệt với khu vực tư nhân.
Thứ tư, khuyến khích mô hình “gia đình thân thiện với trẻ em”. Đây không chỉ là khẩu hiệu, mà là tư duy mới trong quy hoạch đô thị, thiết kế nhà ở, không gian công cộng, hệ thống y tế, giáo dục. Một thành phố đáng sống là nơi mà các gia đình trẻ không phải chật vật tìm chỗ chơi cho con, không phải xếp hàng từ đêm để xin suất học mầm non và không lo tắc nghẽn bệnh viện nhi.
Thứ năm, xây dựng hình ảnh người mẹ, người cha thời đại mới. Truyền thông cần khơi dậy hình ảnh tích cực của việc làm cha mẹ không chỉ là hy sinh, vất vả, mà còn là một hành trình trưởng thành đầy ý nghĩa. Đồng thời, xóa bỏ định kiến “phụ nữ sinh nhiều sẽ khổ”, “nghỉ sinh là mất cơ hội” hay “trẻ con là gánh nặng”. Tâm lý xã hội tích cực chính là nền tảng lâu dài của khuyến sinh.
Tóm lại, sinh con không phải là việc “nên làm cho đất nước”, mà là lựa chọn cá nhân, gắn với hạnh phúc gia đình. Chính sách của Nhà nước cần tạo điều kiện thực chất để quyết định ấy trở nên dễ dàng, yên tâm và tràn đầy hy vọng. Nếu làm được điều đó, chúng ta không cần khuyến khích quá nhiều bằng lời, hành động và môi trường sống sẽ tự khơi dậy khát vọng làm cha mẹ trong thế hệ trẻ hôm nay.
Việt Nam cần phát triển hệ thống chăm sóc trẻ em công cộng, chất lượng cao. (Nguồn: Nhân Dân) |
Chính sách dân số mới đi đôi với phát triển bền vững
Theo bà, liệu chính sách dân số mới có thể đi đôi được với định hướng phát triển bền vững, khi mà nhiều người lo ngại việc tăng sinh có thể tạo thêm áp lực cho hệ thống an sinh, môi trường và ngân sách?
Đây là một câu hỏi rất đáng suy ngẫm và cũng phản ánh mối lo phổ biến hiện nay trong dư luận. Trong hàng chục năm, chúng ta đã quen với cách tiếp cận dân số như một yếu tố phải kiểm soát để giảm áp lực lên tài nguyên, hạ tầng, giáo dục, y tế. Vì thế, khi chuyển hướng sang “hỗ trợ sinh”, nhiều người có cảm giác lo lắng rằng chúng ta đang đi ngược lại với mục tiêu phát triển bền vững.
Tuy nhiên, phát triển bền vững không đồng nghĩa với việc phải duy trì tỷ suất sinh thấp ở mọi thời điểm. Ngược lại, chính sự mất cân đối dân số, dân số già hóa nhanh, thiếu hụt lực lượng lao động trẻ mới là yếu tố khiến nền kinh tế, xã hội rơi vào trạng thái thiếu bền vững. Chúng ta cần nhìn dân số không phải như một bài toán số lượng, mà là câu chuyện về chất lượng, cơ cấu và phân bổ hợp lý theo không gian và thời gian.
"Điều quan trọng chính sách phải đi vào đúng 'điểm nghẽn tâm lý' và 'nỗi sợ kinh tế' của các gia đình trẻ. Việt Nam nếu chỉ dừng ở khẩu hiệu 'hãy sinh thêm con' mà thiếu các giải pháp đi kèm, sẽ rất khó tạo chuyển biến thực chất". |
Việc điều chỉnh chính sách dân số nhằm nâng tỷ suất sinh không có nghĩa là làm gia tăng dân số một cách ồ ạt, thiếu kiểm soát. Trong thực tế, ngay cả khi các biện pháp khuyến sinh được áp dụng mạnh mẽ, tổng tỷ suất sinh trung bình tại Việt Nam cũng chỉ có thể dao động quanh mức 2,1-2,2 trong một thời gian dài, đủ để bảo đảm cân bằng thế hệ thay thế. Nói cách khác, chúng ta không trở lại thời kỳ bùng nổ dân số, mà chỉ cố gắng duy trì trạng thái ổn định, có kiểm soát.
Từ góc độ phát triển bền vững, dân số hợp lý giúp bảo đảm nguồn lao động cho nền kinh tế, giữ vững tỷ lệ người trong độ tuổi làm việc - điều kiện cần để duy trì năng suất và đổi mới sáng tạo. Đồng thời, dân số trẻ cũng tạo ra nhu cầu tiêu dùng, dịch vụ, giáo dục, nhà ở - những yếu tố đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế nội địa. Dân số suy giảm nhanh chóng sẽ khiến thị trường thu hẹp, sức mua giảm, cấu trúc chi tiêu thiên lệch về chăm sóc người cao tuổi, tất cả đều là nguy cơ với phát triển dài hạn.
Về áp lực ngân sách, rõ ràng tăng dân số có thể khiến các dịch vụ công như y tế, giáo dục, giao thông phải mở rộng. Tuy nhiên, nếu được chuẩn bị từ sớm và điều chỉnh theo lộ trình, thì chi phí này hoàn toàn có thể kiểm soát và chính việc tăng dân số lao động sẽ giúp tăng nguồn thu ngân sách. Vấn đề là quy hoạch và phân bổ hợp lý, chứ không phải là giữ cho dân số thấp bằng mọi giá.
Ngoài ra, cần nhấn mạnh phát triển bền vững là mục tiêu tổng thể, không chỉ là bài toán dân số, mà còn bao gồm chuyển đổi năng lượng, giảm phát thải, bảo vệ đa dạng sinh học, công bằng xã hội… Trong bức tranh ấy, chính sách dân số cần đồng hành chứ không đối nghịch với các trụ cột phát triển bền vững khác.
Do đó, tôi cho rằng chính sách dân số mới hoàn toàn có thể đi đôi với phát triển bền vững, nếu chúng ta tiếp cận một cách linh hoạt, khoa học và đồng bộ. Không điều chỉnh kịp thời, chúng ta sẽ phải trả giá đắt trong tương lai, nhưng nếu điều chỉnh mà không có kế hoạch, chúng ta cũng đối diện với nguy cơ mất cân đối. Vấn đề là ở tầm nhìn và năng lực thực thi chính sách, điều mà Việt Nam hoàn toàn có thể làm tốt nếu có sự đồng thuận và quyết tâm từ cả hệ thống chính trị đến người dân.
Chiều 3/6, tại Phiên họp thứ 46, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số số 06/2003/PL-UBTVQH11 đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh số 08/2008/PL-UBTVQH12. Trình bày tờ trình, Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan cho biết, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi Khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh Dân số số 08/2008/PLUBTVQH12 sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số năm 2003: “Quyết định thời gian và khoảng cách sinh con” thành “Quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khoẻ, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở bình đẳng”. Đồng thời, bỏ khoản 2: “Sinh một hoặc hai con, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định”; giữ nguyên khoản 3. Sửa đổi này nhằm khắc phục tình trạng chênh lệch mức sinh giữa các vùng, đối tượng, tránh để mức sinh giảm quá thấp, không đạt mức sinh thay thế - điều có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững về kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng trong tương lai. “Việc sửa đổi văn bản pháp luật quy định về số con là một trong những nội dung nhằm duy trì mức sinh thay thế, tránh mức sinh tiếp tục giảm thấp trong thời gian tới”, Bộ trưởng Đào Hồng Lan nói. Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan cho biết, mức sinh trên toàn quốc đang có xu hướng giảm thấp dưới mức sinh thay thế, từ 2,11 con/phụ nữ (2021) xuống 2,01 con/phụ nữ (2022), 1,96 con/phụ nữ (2023) và 1,91 con/phụ nữ (2024) thấp nhất trong lịch sử và được dự báo là tiếp tục xuống thấp trong các năm tiếp theo. Theo dự báo, kịch bản mức sinh tiếp tục giảm, đến năm 2039, Việt Nam sẽ kết thúc thời kỳ dân số vàng, năm 2042 quy mô dân số trong độ tuổi lao động đạt đỉnh và sau năm 2054 dân số bắt đầu tăng trưởng âm. Lúc đó, hệ lụy của mức sinh thấp kéo dài sẽ dẫn đến thiếu hụt lực lượng lao động, suy giảm quy mô dân số, đẩy nhanh già hóa dân số, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội. |
Nguồn: https://baoquocte.vn/dbqh-nguyen-thi-viet-nga-khong-tha-noi-chinh-sach-dan-so-can-xac-dinh-lai-he-gia-tri-xa-hoi-xoay-quanh-gia-dinh-tre-317327.html
Bình luận (0)