Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

FDI: Từ những bước đi đầu tiên đến động lực tăng trưởng kinh tế

Từ những bước đi đầu tiên đầy khó khăn, đến nay, FDI trở thành động lực tăng trưởng kinh tế. Việt Nam cũng khẳng định vị thế qua FDI.

Hà Nội MớiHà Nội Mới31/08/2025

Nhân kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2-9, phóng viên Báo Hànộimới đã có cuộc trao đổi với TS. Phan Hữu Thắng, nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư nay là Bộ Tài chính) xung quanh thu hút vốn FDI từ những ngày đầu đến thời điểm hiện nay.

- Ông có thể cho biết những văn bản đầu tiên về thu hút FDI?

- Có thể nói, Cách mạng Tháng 8-1945 là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Không chỉ mang ý nghĩa chính trị, Cách mạng Tháng 8 còn mở đường cho việc hình thành nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Nhờ có độc lập, Việt Nam mới có thể hoạch định các chính sách đối nội, đối ngoại phù hợp, trong đó có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Việt Nam đã có Nghị định số 115-CP ngày 18-4-1977 ban hành Điều lệ đầu tư nước ngoài. Đây là văn bản đầu tiên thể chế hóa đường lối, chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng sau khi đất nước bước vào giai đoạn xây dựng lại nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá nghiêm trọng.

ts-thang.jpg
TS. Phan Hữu Thắng, nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư nay là Bộ Tài chính). Ảnh: NVCC

Tuy nhiên, Nghị định số 115-CP chưa mang lại kết quả như kỳ vọng, nên năm 1984, Bộ Chính trị quyết định bổ sung và hoàn thiện, tiến tới xây dựng một đạo luật đầu tư hoàn chỉnh. Sau nhiều vòng thảo luận, ngày 29-12-1987, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đây được coi là đạo luật mang tính bước ngoặt, đánh dấu thời kỳ mới trong thu hút FDI.

Sau đó, Luật Đầu tư nước ngoài đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung theo hướng ngày càng thông thoáng, hấp dẫn, phù hợp thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư và góp phần đưa dòng vốn FDI tăng trưởng mạnh mẽ, đóng góp quan trọng cho công cuộc đổi mới.

- Trong giai đoạn đầu, thu hút vốn FDI gặp những khó khăn gì, thưa ông?

- Thách thức nội tại lớn nhất trong giai đoạn đầu mở cửa (1977-1987) là cần đổi mới tư duy về thu hút đầu tư nước ngoài phát triển kinh tế - xã hội.

Các thách thức còn lại cũng không nhỏ, tưởng chừng như không thể vượt qua. Đó là cơ sở hạ tầng nền kinh tế như đường sá, cầu cống, sân bay, bến cảng, nhà ga, nhà máy, các cơ sở công nghiệp khác,… bị phá huỷ nặng nề; ngân sách nhà nước eo hẹp; số lượng doanh nghiệp nhà nước ít, quy mô nhỏ, thiếu vắng các doanh nghiệp tư nhân.

Chưa kể, sau chiến tranh kéo dài, nền kinh tế bị bao vây cấm vận nên còn phải thực hiện chế độ bao cấp, nên đời sống người dân khó khăn chồng chất, lương thực, hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu...

Về thách thức bên ngoài, đất nước bị bao vây cấm vận nên không nhà đầu tư nước ngoài nào dám đầu tư vào Việt Nam. Các nước trong khối xã hội chủ nghĩa mà Liên Xô được coi là thành trì vẫn chủ yếu viện trợ không hoàn lại.

Chính vì vậy mà thu hút đầu tư nước ngoài thời kỳ đó có nhiều câu chuyện đáng nhớ, như không có nhiều dự án sản xuất công nghiệp, thậm chí nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam để trồng chuối xuất khẩu. Các dự án công nghiệp đầu tiên là những dự án về lắp ráp xe máy, ô tô của Honda, Toyota, của Ford,…

Trong thời kỳ đầu, đại diện Việt Nam cùng các nhà đầu tư nước ngoài khảo sát, tìm cơ sở sản xuất phụ trợ, song hầu như không một cơ sở nào có thể tham gia vào quá trình sản xuất xe máy, ô tô lúc đó...

Các bên chỉ biết cười trừ và bắt tay nhau chia sẻ khó khăn chung trong giai đoạn đầu này. Chính sự thấu hiểu và chia sẻ này mà các nhà đầu tư nước ngoài đều có cam kết bảo đảm tỷ lệ sản xuất tại Việt Nam từng bước sẽ được nâng lên.

- Sau gần 40 năm, FDI đã có sự phát triển và đóng góp như thế nào đối với kinh tế Việt Nam?

dtnn.png
Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam 7 tháng các năm 2021-2025 (tỷ USD). Ảnh: CTK

Trong gần bốn thập kỷ thu hút FDI (1987–2025), Việt Nam luôn kiên định thu hút vốn nước ngoài nhằm phục vụ các mục tiêu chiến lược cho phát triển kinh tế-xã hội. Một sự thay đổi thần kỳ chứng minh cho sự phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam trong gần 40 năm qua (kể từ tháng 12-1987, năm Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời).

Chỉ so sánh về nguồn vốn FDI, nếu như vốn FDI thực hiện trong kế hoạch 5 năm đầu tiên 1991-1995 về phát triển kinh tế-xã hội chỉ đạt trên 7,1 tỷ USD thì đến nay trong giai đoạn 2021- 6/2025, vốn FDI thực hiện đã đạt trên 102,3 tỷ USD, gấp hơn 14 lần kế hoạch 5 năm đầu tiên.

Năm 2005, chúng ta hợp nhất Luật Đầu tư (giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài) để tạo một “sân chơi” bình đẳng, minh bạch cho mọi thành phần kinh tế. Cải cách này cùng việc Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tham gia hàng loạt hiệp định thương mại tự do với nhiều cường quốc trên thế giới, như CPTPP-Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái bình dương, EVFTA - Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- Liên minh Châu Âu... (tổng cộng 16 FTA có hiệu lực đến thời điểm hiện tại) đã làm tăng mạnh niềm tin của giới đầu tư quốc tế.

FDI đã trở thành một động lực chính thúc đẩy tăng trưởng GDP, mở rộng xuất khẩu và giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Qua mỗi giai đoạn điều chỉnh chính sách, dòng vốn FDI vào Việt Nam lại tăng cả về số lượng lẫn chất lượng. Đến nay, khu vực FDI đóng góp khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tạo hơn 4 triệu việc làm trực tiếp và gián tiếp, chiếm trên 70% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.

lnh05837.jpg
Sản xuất xe máy Honda điện tại Việt Nam. Ảnh: Hoàng Linh

Kết quả thu hút vốn và sử dụng vốn FDI nói trên đã góp phần tích cực trong việc bổ sung năng lực sản xuất mới, làm gia tăng quy mô nền kinh tế và tạo ra sự phát triển vượt bậc, vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế đã được nâng cao.

- Theo ông, để nâng cao chất lượng, hiệu quả của dự án FDI cần thực hiện các giải pháp gì?

- Câu hỏi trên luôn là mối quan tâm hàng đầu hiện nay không chỉ đối với các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến các địa phương về đầu tư nước ngoài mà còn đối với cộng đồng doanh nghiệp và cả người dân. Lý do là bởi sự ảnh hưởng và sức lan toả của FDI hiện nay là rất lớn.

Cách tốt nhất hiện nay là nhìn thẳng vào sự thật xem trong thu hút và quản lý FDI đang còn tồn tại gì để tìm ra giải pháp khắc phục nhanh nhất, nhanh chóng nâng cao chất lượng và hiệu quả của các dự án FDI trong giai đoạn tới.

- Những tồn tại đó là gì, thưa ông?

- Có nhiều tồn tại được các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương chỉ ra, song cần nói đến là tồn tại về thể chế và chính chính sách, nguồn nhân lực. Kết cấu hạ tầng cũng cần được tập trung xử lý sớm để đảm bảo cho chất lượng và hiệu quả của nguồn vốn FDI vào Việt Nam trong giai đoạn tới.

Thứ nhất, khắc phục các rào cản thể chế và chính sách. Các vướng mắc về thủ tục hành chính, chuyển nhượng đất đai-giá thuê đất vẫn là điểm hạn chế.

Theo khảo sát của JETRO, 62,4% doanh nghiệp Nhật Bản được khảo sát trong năm 2024 cho biết thủ tục xin giấy phép còn phức tạp; 57% doanh nghiệp cho biết hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và thực thực thi thiếu minh bạch.

Thứ hai, nguồn nhân lực lao động dù đã được chú trọng phát triển nhưng vẫn còn thiếu và yếu, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân lực cho các dự án điện tử, bán dẫn, AI, kỹ thuật số,.. trong tất cả các lĩnh vực ngành nghề hiện nay.

Thứ ba, kết cấu hạ tầng dù đã được phát triển mạnh trong thời gian vừa qua nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của dòng vốn FDI.

- Trân trọng cảm ơn ông!

Nguồn: https://hanoimoi.vn/fdi-tu-nhung-buoc-di-dau-tien-den-dong-luc-tang-truong-kinh-te-714763.html


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Tiêm kích Su 30-MK2 thả đạn nhiễu, trực thăng kéo cờ trên bầu trời thủ đô
Mãn nhãn màn tiêm kích Su-30MK2 thả bẫy nhiệt rực sáng trên bầu trời Thủ đô
(Trực tiếp) Tổng duyệt lễ kỷ niệm, diễu binh, diễu hành mừng Quốc khánh 2-9
Dương Hoàng Yến hát chay 'Tổ quốc trong ánh mặt trời' gây xúc động mạnh

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm