Nằm trong chuỗi các hoạt động kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ đang diễn ra, phóng viên Báo và phát thanh, truyền hình Nghệ An có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Đình Lương - nguyên Trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) về những vấn đề xung quanh quá trình đàm phán này.
PV: Thưa ông, khi đàm phán BTA, Việt Nam đã gặp những khó khăn gì?

Ông Nguyễn Đình Lương: Thời điểm đó, dù hai nước đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao, nhưng quan hệ hai nước vẫn coi nhau như "cựu thù", không tin nhau, nghi ngờ lẫn nhau. Việt Nam không chấp nhận cho người Mỹ vào kinh doanh. Nền kinh tế hai nước lại khác nhau một trời một vực. Họ là kinh tế thị trường, ta là kinh tế bao cấp. GDP của ta chỉ có 33 tỷ đô la, họ trên 10 nghìn tỷ đô. Họ có một nền khoa học kỹ thuật phát triển, trong khi ta còn nghèo nàn.
PV: Động lực gì giúp các ông thành công trong đàm phán kinh tế với Mỹ?
Ông Nguyễn Đình Lương: Sau những năm dài nghiên cứu, tìm hiểu, chúng tôi mới thấy là Mỹ rất giàu, thị trường Mỹ là thị trường mở, ai cũng có thể vào và hàng hóa nào cũng được, miễn là cạnh tranh được và cả thế giới đua nhau vào Mỹ để làm giàu. Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Malaysia và cả Tây Âu… đều tranh thủ khai thác. Trung Quốc năm 1979 ký Hiệp định thương mại với Mỹ, lúc đó xuất khẩu của Trung Quốc vào Mỹ có 49 triệu đô la mà năm 2000 đã trên 400 tỷ, nay đạt mức 600 - 700 tỷ đô.
Nước ta lúc đó đang nghèo, đang có nhu cầu phát triển, nên ta phải ký Hiệp định BTA để ta khai thác thị trường Mỹ. Đó là lý do chúng tôi cố gắng để ký bằng được dù vất vả, dù rất khó khăn và cuối cùng chúng tôi đã thành công.

PV: Có ý kiến cho rằng BTA đã góp phần xóa bỏ bao cấp, thiết lập cơ chế kinh tế thị trường, ông có ý kiến gì thưa ông?
Ông Nguyễn Đình Lương: Khi đàm phán, phía Hoa Kỳ đưa ra yêu cầu là Hiệp định thương mại BTA phải bảo đảm nguyên tắc "đôi bên cùng có lợi", ta chấp nhận vì đó là nguyên tắc phổ quát và công bằng. Muốn đảm bảo nguyên tắc "cùng có lợi" thì phải lấy chuẩn mực của thị trường thế giới. Có chấp nhận chuẩn mực của thị trường thế giới thì Mỹ mới vào được thị trường Việt Nam, và Việt Nam vào được thị trường Mỹ, Việt Nam mới có thể khai thác thị trường toàn thế giới. Đó là con đường để Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO, ở đó chỉ có nền kinh tế thị trường.
PV: Ông có thể cho biết nét khác biệt trong đàm phán BTA?
Ông Nguyễn Đình Lương: Nguyên tắc của người đi đàm phán là tìm và thỏa thuận những nguyên tắc, sao cho những nguyên tắc đó không va đập với hệ thống luật lệ hiện hành, và từ lâu trước đó ta đã làm như vậy. Nhưng với Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ thì khác. Bản thân Hoa Kỳ đã là kinh tế thị trường, vậy Việt Nam phải bỏ cơ chế bao cấp, hình thành cơ chế thị trường để phù hợp với Hoa Kỳ và thế giới. Ở đây không phải là chuyện ta thua Mỹ thắng, mà là những gì trái với quốc tế, với thị trường thì ta bỏ hoặc có lộ trình bỏ, để mở đường cho đất nước phát triển.

PV: Theo BTA thì ta phải làm gì và Mỹ phải làm gì, thưa ông?
Ông Nguyễn Đình Lương: Bản thân kinh tế Mỹ là kinh tế thị trường tiêu biểu và Mỹ đã có bản cam kết trong WTO, Mỹ không phải làm gì thêm. Đối với Việt Nam, BTA là một lộ trình bỏ bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường minh bạch.
Ta phải xóa bỏ các biện pháp độc quyền, phân biệt đối xử, bao cấp trong hệ thống luật pháp của mình. Sau BTA, ta phải rà soát hệ thống luật pháp để lên kế hoạch xây dựng luật pháp. Nhiệm kỳ Quốc hội 2001-2005 ta đã phải sửa đổi, bổ sung làm lại 135 văn bản pháp luật, trong đó phải sửa đổi, bổ sung cả Luật dân sự, Luật hình sự, Luật thương mại, Luật đầu tư, Luật Sở hữu trí tuệ và phải viết mới các luật lĩnh vực dịch vụ như: Tài chính, ngân hàng, viễn thông, GTVT, du lịch … mà trước đó hoàn toàn không có. Ta phải xây dựng hệ thống thuế quan mà trước đó chỉ có thuế xuất nhập khẩu, thuế nông nghiệp… Khi xây dựng, sửa đổi luật theo cơ chế thị trường phải đảm bảo 3 yêu cầu:
1. Luật pháp phải minh bạch, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực thi.
2. Trước khi thông qua luật pháp phải đảm bảo dân và doanh nghiệp, trong và ngoài nước được tham gia ý kiến.
3. Nâng cao vị trí người dân: Trước đây dân muốn kinh doanh gì phải xin phép, Nhà nước cho gì thì kinh doanh cái đó, nay người dân và doanh nghiệp tự do kinh doanh những gì mà Nhà nước không cấm.
PV: Ông có thể chia sẻ thêm về những yếu tố làm nên thành công của đàm phán thương mại BTA ?
Ông Nguyễn Đình Lương: Khi đàm phán, muốn thành công người đàm phán phải đáp ứng ba điều kiện:
1. Phải hiểu kỹ đối tác, hiểu cả về con người, lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị...
2. Phải hiểu luật chơi trên bàn đàm phán. Phải hiểu tại sao trong Hiệp định thương mại có cả Chương đầu tư, Chương thương mại, Chương sở hữu trí tuệ, Chương dịch vụ. Hiệp định thương mại thường chỉ có 4, 5 trang mà trong BTA có 150 trang tiếng Việt và 150 trang tiếng Anh. Tại sao chương đầu tư phải lấy những quy định trong Hiệp định NAFTA (Bắc Mỹ) làm chuẩn mực ? Tại sao các chương khác lấy chuẩn mực WTO ? và nhiều vấn đề khác.
3. Phải đối chiếu với hệ thống luật lệ hiện hành của Việt Nam để tìm phương án xử lý theo hướng để đất nước phát triển. Ta đã thay đổi nhiều yêu cầu của phía Hoa Kỳ cũng như đề xuất cái mới trong các chương đầu tư, dịch vụ... và được họ chấp nhận, hoan nghênh.
PV: Có ý kiến cho rằng, phải chờ xem Việt Nam thực hiện tốt BTA thì Mỹ mới đồng ý cho Việt Nam gia nhập WTO ?
Ông Nguyễn Đình Lương: Ở thời điểm đó WTO do Mỹ chi phối. Đàm phán WTO của Việt Nam với 28 nước, nhưng chủ yếu và khó khăn nhất vẫn là với Mỹ.
Việt Nam ký BTA và Việt Nam thực hiện nghiêm túc. Mỹ cũng đã chi 300.000 USD lập dự án, đặt ở thủ đô Hà Nội để đôn đốc và giúp đỡ sửa đổi luật pháp. Khi Việt Nam xây dựng được hệ thống luật pháp theo cơ chế thị trường, và 7 năm sau ta vào WTO. Các Hiệp định FTA song phương và đa phương sau này ta ký trên cơ sở Việt Nam là kinh tế thị trường.

PV: Xin trân trọng cảm ơn ông!
Sinh năm 1940 tại huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nuôi giấc mơ trở thành một kỹ sư chế tạo máy để giúp người dân xứ Nghệ bớt vất vả, nhưng cuộc đời lại dẫn lối để ông Nguyễn Đình Lương trở thành một nhà đàm phán có kiến thức sâu rộng, chuyên nghiệp, đầy bản lĩnh, sự kiên cường, mềm dẻo, cương nhu linh hoạt, tận tâm, cần mẫn và đáng tin cậy.
Hơn 2 thập kỷ là người đàm phán thương mại cấp Chính phủ, ông Nguyễn Đình Lương đã trực tiếp tham gia đàm phán các hiệp định với Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa, với Singapore, Canada, Na Uy, Thụy Sỹ… và sau cùng là Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) kéo dài suốt 5 năm từ năm 1995 -2000.30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, quan hệ hai nước đã có những bước tiến dài, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân hai nước, đồng thời đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương cũng như trên thế giới. Tính đến cuối năm 2024, đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ tại Việt Nam ước đạt 11,94 tỷ USD với trên 1400 dự án. Hầu hết các tập đoàn lớn của Hoa Kỳ đều hiện diện và đầu tư hiệu quả tại Việt Nam. Về phía Việt Nam có 252 dự án đầu tư tại Hoa Kỳ, tổng số vốn đầu tư hơn 1,36 tỷ, xếp thứ 6/83 địa bàn đầu tư ra nước ngoài. Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 8 và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 của Hoa Kỳ tại khu vực ASEAN.
Nguồn: https://baonghean.vn/hiep-dinh-thuong-mai-viet-nam-hoa-ky-cu-bat-tay-lich-su-10308182.html
Bình luận (0)