Tỉnh Thái Nguyên sau sáp nhập có tỷ lệ che phủ rừng cao trên toàn quốc (đạt khoảng 60%). |
Chuyển hướng từ “lấy gỗ” sang “lấy giá trị”
Tỉnh Thái Nguyên hiện có tổng diện tích tự nhiên trên 838 nghìn héc-ta, trong đó, theo quy hoạch đất lâm nghiệp tỉnh Thái Nguyên (cũ) có hơn 172 nghìn héc-ta, độ che phủ rừng đạt 45,72%; Bắc Kạn (cũ) có khoảng 405 nghìn héc-ta, độ che phủ rừng 72,18%. Sản lượng khai thác gỗ trung bình của tỉnh hằng năm đạt trên 600.000m3. Sau sáp nhập, độ che phủ rừng toàn tỉnh đạt khoảng 60%, là một trong những địa phương có tỷ lệ che phủ rừng cao trên toàn quốc.
Trước đây, mô hình phát triển kinh tế rừng ở Thái Nguyên chủ yếu dựa vào trồng rừng để lấy gỗ nguyên liệu và khai thác đơn lẻ, nhỏ lẻ.
Tuy nhiên, những năm gần đây, tỉnh đã chủ động chuyển hướng sang phát triển kinh tế rừng bền vững, lấy rừng làm sinh kế, tạo nguồn thu ổn định cho người dân; chuyển đổi mô hình phát triển rừng theo hướng lâm nghiệp đa giá trị, bao gồm: Trồng rừng gỗ lớn, phát triển dược liệu dưới tán rừng, khai thác du lịch sinh thái và chi trả tiền nhận khoán và bảo vệ rừng.
Nhiều mô hình trồng dược liệu dưới tán rừng, như: Ba kích tím, hà thủ ô, sa nhân tím, xuyên khung, bách bộ, nhân trần, kim tiền thảo, khôi nhung tía, chè hoa vàng... đang được nhân rộng tại một số địa phương.
Bà Triệu Thị Khen, người dân xã Na Rì cho biết: Trước kia, rừng chỉ để lấy củi, lấy gỗ. Giờ đây, cùng với trồng rừng sản xuất, gia đình tôi trồng hơn 1ha cây sa nhân dưới tán rừng keo, năm nào cũng được thu hơn 60 triệu đồng. So với trồng keo lấy gỗ đơn thuần thì hiệu quả cao hơn rất nhiều, mà còn chống xói mòn và giữ được độ ẩm cho đất rất tốt. Đây là lợi ích kép rõ ràng.
Còn ông Dương Văn Chấn, thôn Nà Khâu, xã Đồng Phúc, tham gia thực hiện mô hình trồng cây dược liệu dưới tán rừng, chia sẻ: Cây khôi nhung tía trồng khoảng 4 - 5 tháng là cho thu hoạch lá lứa đầu, mỗi năm thu từ 3 - 4 đợt, với giá bán dao động từ 150-180 nghìn đồng/kg lá khô. Còn đối với cây chè hoa vàng trồng được 3 năm có thể thu hoạch lá, sau 4 đến 5 năm sẽ cho thu hoạch hoa. Với giá bán hiện là 400-600 nghìn đồng/kg hoa tươi, lá có thể bán khoảng 25 nghìn đồng/kg, tính ra mỗi cây chè hoa vàng cho thu khoảng 1 triệu đồng.
Không chỉ chú trọng khai thác hiệu quả tài nguyên rừng, Thái Nguyên còn thúc đẩy quá trình khoanh nuôi tái sinh, giao khoán bảo vệ rừng.
Năm 2024, tổng số tiền chi trả nhận khoán và bảo vệ rừng cho người dân trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên (cũ) khoảng 62 tỷ đồng, chi trả trực tiếp cho gần 16.000 hộ dân; tỉnh Bắc Kạn (cũ) chi trả trên 65 tỷ đồng cho hơn 14.000 hộ dân và cộng đồng quản lý rừng. Đây là nguồn thu ổn định và mang tính khuyến khích cao để người dân gắn bó với rừng, coi rừng là tài sản quý.
Tín chỉ carbon – “mỏ vàng xanh” đang được đánh thức
Một phần diện tích trồng cây khôi nhung tía dưới tán rừng của gia đình ông Dương Văn Chấn, thôn Nà Khâu, xã Đồng Phúc. |
Khái niệm tín chỉ carbon giờ không còn xa lạ với ngành Lâm nghiệp Thái Nguyên. Đây là đơn vị đo lường lượng khí nhà kính được cắt giảm hoặc hấp thụ, có thể mua bán trên thị trường trong nước và quốc tế, tạo ra nguồn tài chính mới cho người trồng và giữ rừng.
Theo ước tính của ngành Nông nghiệp - Môi trường, nếu có thể huy động khoảng 50.000ha rừng sản xuất và phòng hộ vào chương trình chi trả tín chỉ carbon, thì mỗi năm tỉnh có thể hấp thụ khoảng từ 300.000 - 500.000 tấn CO2 (giá khoảng từ 5-8 USD/tấn CO2).
Hiện nay, Thái Nguyên đã hoàn tất khảo sát bước đầu và lập hồ sơ tham gia Chương trình giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ER-P) theo hợp tác giữa Việt Nam và Quỹ Carbon của Ngân hàng Thế giới. Trong đó, các xã Định Hóa, Võ Nhai và Đại Từ được lựa chọn là địa bàn trọng điểm, với mục tiêu xây dựng vùng rừng đạt chuẩn MRV (đo lường - báo cáo - thẩm định) để thực hiện chi trả tín chỉ carbon trong giai đoạn 2025-2030.
Riêng đối với các xã khu vực phía Bắc của tỉnh có tỷ lệ che phủ rừng cao và ổn định, nơi có hàng trăm nghìn héc-ta rừng tự nhiên và rừng sản xuất, nhiều diện tích rừng đặc dụng có giá trị sinh thái cao được đánh giá là khu vực có trữ lượng carbon rừng lớn nhất cả nước, lên tới khoảng 21 triệu tấn mỗi năm.
Để khai thác hiệu quả nguồn lực carbon từ rừng, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 3019/QĐ-UBND ngày 24/9/2021, phê duyệt Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Hiện nay, Chi cục Kiểm lâm tỉnh cũng đang thực hiện Dự án điều tra trữ lượng rừng, trữ lượng carbon rừng đã được UBND tỉnh Bắc Kạn (cũ) phê duyệt đề cương, dự toán; điều tra trữ lượng rừng trên địa bàn tỉnh...
Theo ông Nguyễn Mỹ Hải, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Thái Nguyên: Phát triển kinh tế rừng gắn với tín chỉ carbon không chỉ là một giải pháp tài chính mới, mà còn góp phần giúp Thái Nguyên đạt được mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn và trung hòa carbon vào năm 2050.
Kinh tế rừng không chỉ là “kế sinh nhai” của hàng vạn hộ dân miền núi Thái Nguyên, mà còn là giải pháp quan trọng để ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ đa dạng sinh học và xây dựng nền kinh tế tuần hoàn xanh.
Đến nay, tỉnh Thái Nguyên đã phát triển được khoảng 16.000ha rừng gỗ lớn, hơn 9.000ha quế. Dự kiến đến hết 2025, tổng diện tích rừng được cấp chứng chỉ FSC đạt 26.580ha. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế rừng bền vững, đồng thời là tiềm năng lớn để Thái Nguyên tham gia thị trường tín chỉ carbon trong nước và quốc tế. |
Nguồn: https://baothainguyen.vn/tin-noi-bat/202508/kinh-te-rung-tru-cot-xanh-5491e35/
Bình luận (0)