Năm 2025, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 8,3-8,5%, hướng tới trở thành một trong những nền kinh tế tăng nhanh nhất khu vực.
Các yếu tố dẫn dắt tăng trưởng
Trước những kỳ vọng và thách thức đan xen, TS Châu Đình Linh, chuyên gia kinh tế, cho rằng trong kịch bản bình thường, nền kinh tế vẫn có khả năng đạt mức tăng trưởng khoảng 8% - con số vượt trội so với nhiều nước trong khu vực và cao hơn so với cùng kỳ.
Theo ông, tăng trưởng những tháng cuối năm dự kiến sẽ được dẫn dắt bởi một số yếu tố chính, gồm sự phục hồi đáng kể đơn hàng từ nhóm FDI, mặt bằng lãi suất thấp kích thích đầu tư và tiêu dùng, cùng khả năng kiểm soát lạm phát dưới mức trần.
Nền kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc lớn vào khu vực FDI. Hiện tại, các đơn hàng phục hồi tích cực. Cán cân thương mại, bao gồm cả cán cân vãng lai, tiếp tục duy trì ở trạng thái tích cực. Tuy vậy, hoạt động xuất nhập khẩu vẫn đối diện thách thức từ chính sách thuế quan chưa ổn định. Ông Linh khuyến nghị cần khai thác thêm lợi thế ở các ngành như nông nghiệp và du lịch quốc tế.
“Về lãi suất, mặt bằng hiện được giữ ổn định, tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay sản xuất và người dân vay tiêu dùng. Dù một số ngân hàng có động thái tăng lãi suất do áp lực thanh khoản, nhưng tác động lên thị trường chung chưa đáng kể”, TS Linh chia sẻ.
Về lạm phát, theo ông, dù chịu nhiều sức ép, mức hiện tại vẫn khoảng 3%, dưới ngưỡng trần 4,5%. Việt Nam hoàn toàn có khả năng kiểm soát lạm phát trong năm nay. Đầu tư công cũng đang được thúc đẩy khi tiến độ giải ngân và thi công được cải thiện rõ rệt.
Theo chuyên gia, Việt Nam hoàn toàn có khả năng kiểm soát lạm phát trong năm nay (Ảnh: Mạnh Quân).
Bàn về rủi ro lạm phát, TS Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế - Tài chính (Học viện Tài chính), dự báo CPI nửa cuối năm có thể tăng bình quân 0,27%/tháng, đưa CPI cả năm vào khoảng 3,4%. Trong trường hợp kinh tế toàn cầu suy thoái mạnh, ông dự báo lạm phát có thể chỉ quanh 3%.
Theo vị này, tình hình lạm phát hiện tại có dấu hiệu ổn định, chủ yếu nhờ vào nguồn cung trong nước được đảm bảo và sự nỗ lực của Chính phủ trong việc bình ổn giá. Ông chỉ ra yếu tố khiến lạm phát năm nay giữ ở mức thấp.
Theo ông, thuế đối ứng không chỉ làm thay đổi dòng chảy thương mại toàn cầu, mà trong thời gian đầu kinh tế thế giới giảm tốc, nhu cầu hàng hóa là nguyên nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất, trong đó có mặt hàng xăng dầu, giảm, khiến giá đầu vào giảm, kéo theo giá thành đầu ra và giá bán giảm.
Trong bối cảnh này, Tổ chức Các nước Xuất khẩu dầu mỏ và đồng minh (OPEC+) đã thống nhất tăng khai thác sản lượng dầu thô kể từ đầu tháng 8, càng tác động làm giảm giá xăng dầu trên thị trường thế giới và Việt Nam.
"Bên cạnh đó, việc tiếp tục miễn, giảm gia hạn các loại thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất theo thẩm quyền, đặc biệt là giảm 2% thuế giá trị gia tăng; Ngân hàng Nhà nước giữ mặt bằng lãi suất cho vay ở mức thấp cũng là những nhân tố quan trọng để kiểm soát lạm phát năm nay ở mức thấp", vị chuyên gia nhận định.
Thách thức trung hạn
Nhận định thêm, TS Nguyễn Đức Độ nhấn mạnh tỷ giá USD/VND là biến số khó đoán. Dù đồng USD có xu hướng suy yếu trên thị trường quốc tế, tỷ giá USD/VND vẫn tăng do xuất khẩu Việt Nam chững lại, chênh lệch lãi suất USD - VND và áp lực nhập siêu. Với mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16% và duy trì lãi suất thấp để hỗ trợ tăng trưởng GDP 8%, cung tiền có thể tăng nhanh, tạo sức ép lên giá cả trong nước.
"Ở chiều ngược lại, xuất khẩu Việt Nam khó khăn khiến hàng hóa trong nước dư thừa, góp phần kiềm chế đà tăng giá. Chính nghịch lý này cho thấy những khó khăn tăng trưởng lại trở thành yếu tố giúp giảm nguy cơ lạm phát bùng nổ”, ông Độ phân tích.
Chia sẻ với phóng viên báo Dân trí, GS David Dapice, học giả Quốc tế Đại học Tuft, Trường Quản lý Nhà nước John F.Kennedy, Đại học Harvard (Mỹ) bày tỏ ấn tượng với mức tăng trưởng 7,5% nửa đầu năm của Việt Nam. Tăng trưởng ấn tượng của Việt Nam nửa đầu năm, theo ông, một phần đến từ xuất khẩu sang Mỹ tăng 40%. Tuy nhiên, vị giáo sư dự báo xu hướng này sẽ chậm lại trong nửa cuối năm.
Hoạt động vận chuyển container xuất khẩu ở Cảng Cát Lái ở TPHCM (Ảnh: Hải Long).
"Thực tế, nhập khẩu đang tăng nhanh hơn xuất khẩu, điện chỉ tiêu thụ thêm 4,5%, trong khi doanh số nửa đầu năm của các doanh nghiệp lớn còn giảm nhẹ bất chấp lạm phát. Những yếu tố này khiến nhiều người băn khoăn liệu mức tăng trưởng GDP có phản ánh đúng thực tế, hay chủ yếu nhờ FDI và đầu tư công bù đắp. Dù Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã nới lỏng chính sách, khó có thể kỳ vọng nửa cuối năm tăng tốc mạnh như nửa đầu", ông phân tích.
"Dù tín dụng đã tăng mạnh, phần lớn vẫn để trả nợ cũ chứ chưa tạo ra đầu tư mới. Trong ngắn hạn, tăng trưởng sẽ dựa vào đầu tư công tập trung và cải cách thủ tục kinh doanh, cùng với dòng vốn FDI tiếp tục bổ sung động lực", ông nhận định.
Về trung hạn, ông cho biết, theo phân tích của một số chuyên gia Việt Nam và ngoài nước, tốc độ tăng lao động đang chậm lại, trong khi đầu tư chỉ chiếm khoảng một phần ba GDP. Với điều kiện này, Việt Nam chỉ có thể duy trì tăng trưởng khoảng 3%/năm. Muốn đạt mức cao hơn, phải trông vào năng suất. Nếu năng suất tăng đều 3%/năm, GDP có thể tăng 6%/năm.
"Thực tế giai đoạn 2011-2019, năng suất mới tăng trung bình 2,6%/năm (chưa tính đến tác động của giáo dục). Nếu giữ được nhịp 6% lâu dài, đến giữa thế kỷ, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam có thể đạt 20.000 USD, bước vào nhóm nước thu nhập cao theo chuẩn WB - một thành tựu lớn trong bối cảnh kinh tế toàn cầu phân mảnh, biến đổi khí hậu và dân số già hóa”, ông phân tích.
4 trụ cột để Việt Nam tăng trưởng nhanh và bền vững
Theo GS David Dapice, để duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững, Việt Nam cần tập trung đồng bộ vào 4 trụ cột: Năng lượng, giáo dục, hạ tầng và chính sách hỗ trợ khu vực tư nhân.
Ở lĩnh vực năng lượng, vị chuyên gia cho biết xu hướng toàn cầu cho thấy điện mặt trời, điện gió ngày càng rẻ, trong khi giá pin lưu trữ cũng đang giảm mạnh, giúp việc tích trữ và sử dụng điện trở nên khả thi hơn.
"Trong tương lai, Việt Nam hoàn toàn có thể cân nhắc các lựa chọn năng lượng mới như điện hạt nhân quy mô nhỏ hoặc địa nhiệt. Đi kèm với đó, việc xây dựng hệ thống truyền tải hiện đại và cho phép tư nhân tham gia vào khâu cung ứng sẽ tạo ra nguồn điện sạch, giá rẻ và dồi dào, đây là yếu tố then chốt để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế", ông nhấn mạnh.
GS David Dapice đánh giá với nguồn năng lượng ổn định, Việt Nam có cơ hội phát triển trung tâm dữ liệu - nền tảng cho chuyển đổi số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI). Tuy nhiên, để làm được điều này, cần cải cách khung quản lý dữ liệu, theo hướng cởi mở và linh hoạt hơn như mô hình Malaysia.
GS David Dapice (Ảnh: Đoàn Bắc).
"Nhà nước có thể đi bước đầu, nhưng về dài hạn, chỉ dòng vốn FDI mới đủ quy mô, công nghệ và kinh nghiệm để xây dựng những dự án tầm cỡ. Chẳng hạn, Google vừa công bố đầu tư 7 tỷ USD vào một trung tâm AI tại Anh. Có trung tâm dữ liệu, Việt Nam mới có thể phát triển AI, công nghệ được dự báo là động lực chính thúc đẩy năng suất và là điều kiện sống còn để duy trì năng lực cạnh tranh", ông nói.
Còn giáo dục, theo ông, cần chuyển hướng sang đào tạo kỹ năng cụ thể và thúc đẩy học tập suốt đời, thay vì chỉ dồn vào các bậc học truyền thống. Doanh nghiệp có thể tham gia bằng cách xây dựng chứng chỉ kỹ năng cho người lao động, giống như mô hình đào tạo trực tuyến của Microsoft đang được áp dụng rộng rãi.
Một trụ cột khác là đầu tư công, GS David Dapice cho rằng sự kỷ luật trong lựa chọn dự án có ý nghĩa then chốt, bởi nếu dàn trải hoặc chạy theo các công trình phô trương mà hiệu quả thấp, tăng trưởng sẽ bị kéo lùi.
"Ngoài ra, tín dụng dù đã tăng nhanh nhưng phần lớn vẫn để tái cơ cấu các khoản nợ cũ thay vì thúc đẩy đầu tư mới thực sự. Bên cạnh đó, nếu xu hướng “giải cứu” những tập đoàn lớn gặp khó khăn tiếp diễn, nền kinh tế sẽ phải gánh thêm chi phí và tốc độ tăng trưởng có nguy cơ chậm lại", ông lưu ý.
Nguồn: https://dantri.com.vn/kinh-doanh/lam-sao-vua-tang-truong-ben-vung-vua-khong-danh-doi-lam-phat-20250917094924650.htm
Bình luận (0)