>>>Bài 1: Giếng cổ trong đời sống văn hóa làng xã
Nhận diện giếng cổ
Nước là nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống sinh hoạt và sản xuất của dân làng, nên từ khi định cư từ thuở kỳ thủy, bất cứ làng nào, thôn nào ở vào địa hình nào họ cũng đào hoặc kế thừa giếng của người Chăm còn sót lại, thường gọi là giếng cổ của làng. Dưới góc độ mạch nguồn thì giếng cổ có các loại:
Giếng mạch phun: Là những cái giếng mạch chảy mạnh, phun đứng lên khỏi mặt đất, giếng này không nhiều, làng Võ Xá, xã Võ Ninh (Quảng Ninh) có giếng Con Cá. Giếng này nằm ở thôn Thượng, bên cạnh Quốc lộ 1, mạch từ động cát phía Đông chảy ngầm đến địa điểm thôn Thượng, nước bung lên khỏi mặt cát, chảy mạnh, trong veo. Ngày trước chảy tự do, thành vũng, thành dòng. Nay, để lấy nước nhân trong vùng xây xung quanh thành hình cái giếng có tường bao và tạo một hình đầu con cá, phun nước từ miệng nên gọi là giếng Con Cá. Nước chảy liên tục từ mạch ngầm, không bao giờ tắt, có lẽ ngày xưa dân vùng cát ở đây đã lợi dụng nguồn nước này để sinh hoạt và phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Ngoài giếng Con Cá, ở làng Kim Nại (xã An Ninh, Quảng Ninh) có một mạch nguồn nước từ dãy núi Trường Sơn phía Tây làng chảy về, làng cho rằng "Đất tam long" (ba con rồng) và đã đào xây ba cái giếng, Hai giếng mạch ngầm và một giếng mạch phun ra khỏi mặt đất có tên giếng Mội (mội có nghĩa là chảy thùng). Những giếng này được kè đá trong lòng, phía trên xây gạch nên rất chắc chắn.
|
Giếng đất: Là loại giếng không hoặc mạch không rõ ràng, có thể gọi là giếng làng (ao làng hay hồ chứa nước). Giếng này thường có ở những làng hiếm nước ngọt như làng Trần Xá, Chính Cung, Hữu Niên, Diên Trường (xã Hàm Ninh, Quảng Ninh), Lương Yến (Quán Hàu, Quảng Ninh). Đây là những cái giếng có đường kính hàng chục mét, đào sâu xuống lòng đất có tác dụng như hồ chứa nước ngọt. Làng Lương Yến có giếng Ba, đường kính khoảng 15m. Trên bờ giếng có đắp gờ đất nện chặt. Đến mùa hạn, trâu bò không có nước uống thì sử dụng giếng này. Giếng đất ở làng Hữu Niên, xã Hàm Ninh thì lại có hình vuông, mỗi cạnh khoảng 20m. Dân truyền rằng, đây là giếng của người Chăm còn sót lại. Giếng có thành bao để giữ gìn vệ sinh, vì giếng này dùng để lấy nước uống cho người và cả gia súc.
Giếng mạch ngầm: Loại giếng mạch ngầm có thể phân làm hai loại gồm giếng nước ngọt và giếng nước lợ. Đây là giếng phổ biến, mạch nước chảy ngầm nong sâu khác nhau trong lòng đất. Có những làng không có mạch nước ngọt như làng Lương Yến nhưng có làng Văn La (Quán Hàu, Quảng Ninh) bên cạnh lại có hệ thống giếng nước ngọt cung cấp cho làng, cả vùng vài xã. Đó là hệ thống giếng Hang nổi tiếng và đã đi vào huyền thoại, bảy giếng nay chỉ còn bốn giếng. Làng Lệ Kỳ (xã Vĩnh Ninh, Quảng Ninh) "giếng nước Lệ Kỳ trong vắt". Nhìn chung loại giếng này thường ngọt ở những làng dân cư cư trú ven đồi, ven cát, không được ngọt ở những làng ven sông, hoặc trước đây là những làng ven sông, hoặc những dòng sông, đầm phá bị lấp.
Giá trị của giếng cổ
Giếng nước là một trong những phương thức cung cấp nước chính cho cộng dân cư ở làng xã từ bao đời. Người dân làng dùng nước từ giếng cổ để phục vụ đời sống, ăn uống, tắm giặt và còn để phục vụ sản xuất sinh hoạt. Tất cả mọi sinh hoạt đều diễn ra bên cái giếng.
Về phương diện kinh tế, trước khi con người biết đào giếng thì đa phần nước uống hay nước sinh hoạt đều lấy từ sông, hồ, khe suối, điều này giải thích vì sao các làng vùng trũng Lệ Thủy, ven bờ thượng nguồn các con sông đều rất ít giếng, không muốn nói là không có giếng, vì vậy nên diễn ra các vấn đề sau:
Đó là quá trình lấy nước khó khăn bởi hầu hết nhà của người dân không được xây dựng gần sông, hồ, khe, suối vì tránh nguy cơ mưa lũ ngập lụt. Hơn nữa việc lấy nước đưa về nhà mất nhiều thời gian và công sức, ảnh hưởng nhiều đến công việc mưu sinh của từng gia đình. Nếu có một cái giếng gần nhà thì sẽ lấy nước nhanh chóng và tiện lợi.
Một điều khẳng định là nước sông, hồ, khe, suối chất lượng nước không thể sử dụng trực tiếp làm nước uống, rất dễ xảy ra nhiều vấn đề về sức khỏe cộng đồng. Ngược lại, nước giếng lại trong mát, uống trực tiếp như giếng Hang ở Văn La, giếng Chùa xã Mỹ Thủy (Lệ Thủy)...
Bên cạnh các giá trị kinh tế, vật chất thấy rõ hàng ngày, giếng làng nói chung, giếng cổ nói riêng là không gian sinh hoạt văn hóa chung của làng, nơi đây là các câu chuyện chia sẻ của làng trên xóm dưới thông qua các hoạt động thường nhật như gánh nước giặt giũ, hay là gặp nhau tình cờ bên giếng làng dừng chân trò chuyện...
Giếng làng là nơi biết bao đôi trai gái làm quen gặp gỡ hẹn hò. Có những đôi trai gái đã nên duyên và trở thành vợ chồng nhờ gặp nhau bên giếng.
"Giếng tròn vành vạnh đầu đình
Một trời huyền thoại cho mình ngẩn ngơ"
Giếng cổ truyền tải năng lượng gắn kết lòng người, cố kết cộng đồng và hun đúc lòng yêu quê hương đất nước. Từ giếng nước, từ sự gắn bó thường ngày, người dân làng đoàn kết, tạo nên cộng đồng làng xã gắn bó keo sơn. Tình làng nghĩa xóm càng bền chặt hơn, ai đi đâu về đâu nhưng hình ảnh giếng làng vẫn là nơi cố hương hướng về. Tình làng nghĩa xóm, làng trên xóm dưới gắn kết với nhau cũng từ giếng nước làng, là ngọn nguồn cung cấp nước cho đời sống mà giếng nước cứ thế lắng đọng vào đời sống tinh thần của mọi người.
Giếng cổ là biểu trưng cho sức sống làng xã Việt Nam nói chung, Quảng Bình nói riêng. Đó là long mạch, là trái tim của làng. Giếng nước được xếp hàng quan trọng trong tín ngưỡng tâm linh của mỗi gia đình người Việt. Trong tổng thể cấu trúc tâm linh ở làng quê, nếu cây đa có thần, chùa có phật, thì giếng nước có thủy thần, có thần mẹ nước. Giếng làng phản ánh đời sống tâm linh của xã hội. Theo quan niệm dân gian, giếng nước tượng trưng cho sức sống của dân làng. Trong không gian kiến trúc làng, giếng làng mang đậm nét của nền văn minh lúa nước. Những giá trị văn hóa tinh thần của giếng làng được đi thẳng vào văn thơ, truyền thuyết; đi vào ngôn từ hình ảnh mộc mạc thôn quê, hay trong tình yêu nam nữ:
"Cái giếng đầu làng của em
Cái giếng đầu làng của anh
Một buổi trưa hè trời trong xanh
Em múc trao anh gàu nước mát
Mặt nước hòa đôi bóng chúng mình
...Cái giếng đầu làng của bốn phương
Lau giọt mồ hôi dừng bên đường
Uống ngụm nước đựng trong lòng nón
Nghe thấm tràn tình nghĩa quê hương"
Cái giếng đầu làng (Tế Hanh)
Sự phong phú đa dạng về hình thái giếng cổ còn phản ánh sự sáng tạo và đa dạng văn hóa của cộng đồng dân cư làng xã. Những giá trị tinh thần, giá trị văn hóa của giếng cổ mang lại ý nghĩa to lớn cho sự phát triển của cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, hiện nay trước trào lưu công nghiệp hóa, những giá trị đó đang lặng lẽ mất dần theo thời gian. Ngày nay, nhà nào cũng có giếng riêng. Chưa kể, một thực tế ở các làng xã hiện nay, nhiều giếng làng bị lãng quên, thiếu đi sức sống vốn có của những mạch nước ngầm âm thầm trong lòng đất.
Giếng làng cần được bảo tồn theo đúng vai trò vị trí của nó, chỉ cần một chút chăm sóc quan tâm như giữ gìn sạch sẽ môi trường không gian giếng, tu tạo lại thành giếng và không gian xung quanh, khôi phục những giếng bị bỏ hoang sẽ thổi được một sức sống mới vào hồn cốt cho di sản giếng cổ. Giếng làng nói chung, giếng cổ nói riêng vẫn luôn là những tấm gương soi chứa đựng biết bao ký ức xa xưa. Và cả trong đời sống hiện nay, giếng cổ vẫn là những công trình mang giá trị văn hóa tâm linh của làng quê, là bản sắc văn hóa của Quảng Bình qua bao thế hệ.
Tạ Đình Hà
Nguồn: https://baoquangbinh.vn/van-hoa/202506/mach-nguon-gieng-co-bai-2-bao-ton-va-phat-huy-gia-tri-gieng-co-2227039/
Bình luận (0)