Tôi có may mắn được tham gia gần như từ đầu vào công cuộc đổi mới giáo dục đại học Việt Nam, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của GS Trần Hồng Quân- lúc đó là Bộ trưởng Đại học, Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề, và cũng có may mắn được làm việc trong ekip đổi mới tư duy về giáo dục đại học do Anh dắt dẫn, từ ngày đó cho đến khi Anh ra đi mãi mãi (2023).
Đối với chúng tôi, Anh là người anh cả của nền giáo dục đại học Việt Nam ở thời kỳ đổi mới ban đầu 1987-1997.
Hãy nhìn lại bức tranh giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng cách đây gần 50 năm sau ngày đất nước thống nhất. Để định hướng cho giáo dục Việt Nam bước sang trang mới, năm 1979 Bộ Chính trị đã cho ra Nghị quyết 14 về cải cách giáo dục.
Tuy nhiên, Nghị quyết này mới được triển khai vài năm và mới chỉ giới hạn ở phân khúc giáo dục phổ thông thì Việt Nam đã bị rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội hết sức nặng nề, ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực phát triển của đất nước, trong đó có lĩnh vực giáo dục.
Chúng ta đều biết, nền kinh tế Việt Nam từ sau năm 1954 vốn đi theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp; theo cơ chế này, giáo dục đại học và giáo dục chuyên nghiệp (được Nghị quyết 14 gọi chung là giáo dục nghề nghiệp) được nhà nước bao cấp và có sứ mệnh cung cấp nhân lực các loại cho nhà nước; nhà nước trao ngân sách đào tạo cho các trường căn cứ vào chỉ tiêu đào tạo được nhà nước cấp.
Sản phẩm đào tạo của các trường lại được Nhà nước (Ủy ban kế hoạch nhà nước) bao tiêu và phân bổ cho các đơn vị thuộc bộ máy nhà nước cũng như các thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
Tất nhiên, theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp như vậy, khi bị lâm vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng vào cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học và giáo dục chuyên nghiệp là lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Ngân sách nhà nước bị cắt giảm nghiêm trọng, dẫn đến chỉ tiêu đào tạo của các trường cũng bị cắt giảm theo, thậm chí bị cắt hoàn toàn, các trường đứng trước nguy cơ không có tiền lương chi trả cho đội ngũ giảng viên cũng như không có người học.
Sinh viên tốt nghiệp mặc dù rất ít nhưng rất khó được phân công công tác, đời sống giảng viên khó khăn mọi bề, cơ sở vật chất của nhà trường xuống cấp nghiêm trọng.
Kết quả là nhiều cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục chuyên nghiệp bị đóng cửa hoặc hoạt động thoi thóp; ví dụ, Đại học Tổng hợp Hà Nội, tiền thân của Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay, tại thời điểm đó quy mô chỉ còn 700 sinh viên.
Nói tóm lại, tại thời điểm này, giáo dục đại học và chuyên nghiệp của Việt Nam đứng trên bờ vực thẳm. Chính ở bối cảnh ngành giáo dục đại học và chuyên nghiệp Việt Nam như vậy, Giáo sư Trần Hồng Quân đã được Nhà nước bổ nhiệm giữ cương vị Bộ trưởng Đại học, Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề.
Trước khi chuyển ra Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (năm 1982), Giáo sư Trần Hồng Quân là Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh với thời gian khoảng 7 năm.
Thời gian này, Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh cũng như một loạt các trường đại học ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh đã được xem là những điển hình năng động, luôn tìm cách bươn chải để đối phó với những tác động dữ dội của làn sóng khủng hoảng kinh tế-xã hội nặng nề đang tác động lên mọi lĩnh vực của đất nước, trong đó có giáo dục đại học, với những sáng kiến táo bạo mà lúc đó được gọi bằng những cái tên rất dân dã như “xé rào” hoặc “tự cứu mình”.
Tiếp thu nền giáo dục đại học và chuyên nghiệp trong bối cảnh như vậy, điều may mắn kỳ diệu mà GS. Trần Hồng Quân đã có được, đó là Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 6 vào cuối năm 1986 với quyết định thay đổi đường lối phát triển triển kinh tế-xã hội, chuyển từ phục vụ những yêu cầu của hoạt động trong nền kinh tế “kế hoạch hóa tập trung bao cấp” sang đáp ứng những yêu cầu và hoạt động trong “nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, là dấu mốc bắt đầu thời kỳ đổi mới quan trọng ở nước ta.
Từ thời điểm đó, dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI và nhiều nghị quyết sau đó, hệ thống Giáo dục đại học (GDĐH) nước ta đã triển khai nhiều đổi mới, giúp hệ thống thoát khỏi những khủng hoảng trì trệ để phát triển.
Vì sao giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đó phải “vừa chạy vừa xếp hàng”?
Giai đoạn 1987-1997, nền giáo dục đại học đã có nhiều đổi mới bứt phá mạnh mẽ, tạo dựng được nhiều thành tựu quan trọng, tạo tiền đề phát triển hệ thống giáo dục đại học sau này.
Vậy mà trong những ngày đầu đổi mới ấy, thậm chí là trong suốt quá trình đổi mới, vẫn có những ý kiến “lạc lõng” cho rằng, chúng ta thiếu thận trọng, đã “nóng vội” khi thực hiện đổi mới giáo dục?
Thế nhưng, nếu hiểu rõ bối cảnh của giáo dục đại học nước ta lúc đó, có lẽ ai cũng sẽ hiểu được sự cấp bách của yêu cầu đổi mới như thế nào, nếu cứ trì hoãn, nếu cứ đứng yên để “ngâm cứu” thì làm sao cứu được nền giáo dục đại học bước qua cơn khủng hoảng.
Không vội vàng, không gấp gáp sao được khi cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội đã tác động, ảnh hưởng sâu sắc tới giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng.
Giáo sư Nguyễn Đình Tứ, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Ban Khoa giáo Trung ương, tại Hội nghị chuyên đề giáo dục đại học Việt Nam Xuân Giáp Tuất 2/1994 đã nói về thời kỳ đó như thế này: “Đất nước ta vừa trải qua một thời kỳ khó khăn gay gắt, khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng vào những năm cuối thập kỷ 70 và những năm đầu thập kỷ 80; thể hiện của nó là về kinh tế thì trì trệ, tốc độ tăng trưởng âm, lạm phát 3 con số, sản xuất lương thực không đủ tiêu dùng ở trong nước, phải nhập khẩu lương thực, đời sống của nhân dân, nhất là của những người ăn lương rất khó khăn,... và lòng dân không yên. Cuối những năm 80 và liên tiếp những năm 90, 91 xảy ra sự kiện sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu - những người bạn hàng chủ chốt của Việt Nam. Nhiều người nghĩ rằng, Việt Nam khó mà trụ được trong bối cảnh đó,...”.
Và quả thật, cũng trong bối cảnh đó, các trường đại học Việt Nam khó mà đứng vững được, hàng loạt trường đại học đứng trước nguy cơ đóng cửa vì không có chỉ tiêu tuyển sinh, không được cấp ngân sách, quy mô tuyển sinh không ngừng sụt giảm một cách nghiêm trọng.
Vấn đề cấp bách lúc đó là làm thế nào để ngăn chặn tình trạng giảm quy mô tuyển sinh ở các trường, dù khó khăn đến thế nào đi chăng nữa, cũng phải tìm cách vực dậy, tìm con đường sống cho các cơ sở giáo dục đại học.
Thế mới nói, giáo dục đại học thời kỳ đó phải “vừa chạy vừa xếp hàng” - phải “chạy” để cứu lấy mình trước, rồi phải “xếp hàng” tức là đi từ giải pháp tình thế đến những giải pháp toàn diện hơn.
Trên cương vị Bộ trưởng Đại học Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề, Giáo sư Trần Hồng Quân lúc đó đã vạch ra con đường, định hướng chiến lược cho ngành giáo dục đại học để từng bước, từng bước đi qua cơn khủng hoảng.
Giai đoạn năm 1987, phải áp dụng các giải pháp mang tính chất tình thế, để nhằm ngăn chặn tình trạng giảm quy mô tuyển sinh của các trường, đồng thời, tìm cách tăng dần quy mô đào tạo của các trường lên.
Đóng góp quan trọng của Bộ trưởng Trần Hồng Quân lúc đó là đã đưa ra 4 tiền đề đổi mới làm khung cho những chủ trương đổi mới của ngành giáo dục đại học:
Thứ nhất là đào tạo không chỉ đáp ứng nhu cầu của biên chế nhà nước và kinh tế quốc doanh mà còn phải đáp ứng nhu cầu của các thành phần kinh tế khác và đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
Thứ hai là đào tạo không chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước mà còn phải dựa vào bất cứ các nguồn đầu tư, kinh phí khác có thể huy động được (đóng góp của các tổ chức kinh tế, xã hội, học phí, vốn tự có do nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất, dịch vụ của các trường làm ra; hợp tác quốc tế…).
Thứ ba là đào tạo không chỉ theo kế hoạch tập trung như một bộ phận của kế hoạch kinh tế-xã hội của nhà nước mà còn phải làm kế hoạch đào tạo theo những đơn đặt hàng, những xu thế dự báo, những yêu cầu học tập từ nhiều phía trong xã hội.
Thứ tư là đào tạo không phải gắn chặt với việc phân phối công tác của người tốt nghiệp; người tốt nghiệp có trách nhiệm tự lo việc làm của mình, tự tạo việc làm trong mọi thành phần kinh tế; những nơi sử dụng sẽ tuyển dụng theo cơ chế chọn lọc; nhà trường giúp họ nâng cao trình độ, tiếp tục bồi dưỡng để thích ứng với những yêu cầu cơ động về ngành nghề trong thực tiễn.
Quan điểm chỉ đạo của Giáo sư Trần Hồng Quân về đổi mới đối với giáo dục đại học trong những ngày đầu thực hiện đổi mới cũng được thể hiện lại trong Báo cáo tại Hội nghị Hiệu trưởng đại học và cao đẳng toàn quốc tháng 8/1993.
Theo đó, Giáo sư Trần Hồng Quân nhấn mạnh: giáo dục và đào tạo phải đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển đất nước với tư cách vừa là “động lực thúc đẩy vừa là một điều kiện cơ bản bảo đảm thực hiện những mục tiêu kinh tế-xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước”; Bản thân nền giáo dục quốc dân phải được đổi mới từ cơ cấu hệ thống đến việc xây dựng lại mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo ở tất cả các ngành học, bậc học và cấp học.
Cuộc sống đòi hỏi “giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội”, đòi hỏi giáo dục nước ta trong một thời gian không xa phải đuổi kịp và sánh vai tiến bước với giáo dục của các nước trong khu vực.
Giáo dục và đào tạo phải đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển đất nước với tư cách vừa là “động lực thúc đẩy vừa là một điều kiện cơ bản bảo đảm thực hiện những mục tiêu kinh tế-xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước”; Bản thân nền giáo dục quốc dân phải được đổi mới từ cơ cấu hệ thống đến việc xây dựng lại mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo ở tất cả các ngành học, bậc học và cấp học.
(Giáo sư Trần Hồng Quân)
Giáo dục Việt Nam gánh vác vai trò lớn lao đó trong những điều kiện thấp kém và khó khăn của hiện tại. Giải quyết mâu thuẫn gay gắt này không phải bằng hạ thấp các yêu cầu, mục tiêu của giáo dục, mà là phải tìm giải pháp thực tế và khả thi theo hai hướng: một là, tìm thêm nguồn lực để phát triển giáo dục (mà về sau được gọi là xã hội hóa giáo dục); hai là, sáng tạo những cách làm có hiệu quả theo hướng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống”.
Ghi nhận các quan điểm chỉ đạo về đổi mới giáo dục đại học của Ngành từ những ngày đầu đó, Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu trong buổi làm việc với đội ngũ cán bộ chủ chốt của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 21/2/1998 đã giải thích cụ thể hơn:
“… Ngành Giáo dục và Đào tạo đang cần giải một bài toán rất khó là phải thỏa mãn đồng thời yêu cầu tăng số lượng, bảo đảm chất lượng và nâng cao hiệu quả giáo dục và đào tạo trong điều kiện nguồn lực còn rất hạn hẹp.
Bài toán này cũng khó như bài toán chung hiện nay của đất nước là phải tạo ra một sự tăng trưởng nhanh chóng từ một điểm xuất phát rất thấp, hoặc bài toán của thời kỳ kháng chiến trước đây là một nước nghèo mà phải đánh thắng kẻ thù giàu mạnh hơn mình gấp nhiều lần.
Kinh nghiệm cho thấy muốn giải được bài toán khó đó phải rất sáng tạo, phải dựa vào sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống. Trong trường hợp của giáo dục đào tạo, phải dựa vào sự hợp đồng tác chiến của các “binh chủng” giáo dục khác nhau, các loại hình đào tạo khác nhau, các loại trường khác nhau. Phải phối hợp hài hòa các đơn vị khác nhau trong một nhà trường, các trường khác nhau trên một địa bàn, các mô hình trường khác nhau trong cả hệ thống giáo dục. Để làm được điều đó phải có quan điểm toàn cục, chống các xu hướng bản vị, cục bộ...”.
Trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo này, Giáo sư Trần Hồng Quân đã cùng đội tham mưu của mình, đề ra ba chương trình hành động- triển khai trong 3 năm học trong giai đoạn 1987-1990. Ba chương trình hành động này là những chủ trương đổi mới quan trọng ban đầu để “cứu nguy” cho giáo dục đại học, được coi như những giải pháp cấp bách trong thời điểm đó.
Chương trình 1: Cải cách đào tạo nhằm thực hiện những đổi mới bước đầu về cơ cấu hệ thống, mục tiêu, nội dung, phương pháp và quy trình đào tạo, tạo điều kiện để mở rộng quy mô, ổn định và nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, phù hợp với những yêu cầu kinh tế-xã hội trước mắt và lâu dài.
Chương trình 2: Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học-lao động sản xuất, cải thiện điều kiện vật chất kỹ thuật của đào tạo nhằm mở rộng sự liên kết giữa giáo dục–đào tạo với khoa học–kỹ thuật và sản xuất, kinh doanh, phát huy tính tích cực của nhà trường đem ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ vào thực tiễn, đồng thời tạo ra vốn tự có cho trường, cải thiện những điều kiện của đào tạo và cải thiện một phần đời sống của giáo viên và sinh viên.
Chương trình 3: Xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới công tác tổ chức, quản lý trong ngành, nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng cán bộ giáo dục, cán bộ quản lý giáo dục, thực hiện dân chủ hóa nhà trường, tìm ra động lực tiến bộ của từng người, từng nhà trường.
Ba chương trình này gắn bó mật thiết với nhau, lấy chương trình 1 làm chương trình có tính mục đích, còn hai chương trình 2, 3 là những chương trình có tính điều kiện đối với việc thực hiện chương trình 1.
Không thể triển khai đầy đủ cùng lúc mọi nội dung của cả 3 chương trình hành động của Ngành, trong 3 năm đầu của công cuộc đổi mới (1987-1990), toàn ngành mới chỉ tập trung thực hiện các giải pháp tình thế.
Đó là: chủ trương hình thành hệ chuẩn giữ vai trò xương sống và chủ đạo về chất lượng đối với toàn bộ hệ thống đào tạo đại học, được thể hiện bằng những bộ chương trình mới, giáo trình mới và bằng nhiều quy chế về những đổi mới trong quá trình đào tạo theo hướng nâng cao tính chủ động, tích cực của từng người học, nhằm tạo động lực mới trong học tập của sinh viên; đa dạng hóa, mềm hóa các loại hình đào tạo, đi đôi với việc nhà trường được thu học phí và được sử dụng để cải thiện điều kiện đào tạo, cải thiện một phần đời sống của giảng viên, bù đắp một phần vào sự thiếu hụt của ngân sách cấp cho trường; triển khai quy trình đào tạo mới (QTĐTM) và những quy chế mới về đánh giá xếp loại, cấp học bổng, nộp học phí; triển khai bầu Hiệu trưởng (được coi là sự thay đổi mạnh mẽ và sâu sắc nhất trong sinh hoạt nhà trường), xóa bỏ việc bổ nhiệm thủ trưởng không thời hạn, thực hiện nhiệm kỳ hóa chức vụ Hiệu trưởng với việc giới hạn tối đa giữ chức vụ để tạo điều kiện cho lớp trẻ năng động, sáng tạo kế thừa và nối tiếp nhau tham gia quản lý nhà trường;…
Sau khi thực hiện những giải pháp tình thế với 3 chương trình hành động, đến năm 1990, giáo dục đại học của chúng ta đã được vực dậy, chúng ta đã duy trì được hệ thống giáo dục đại học, không để các trường bị rơi vào tình trạng bị xóa sổ hàng loạt như đã xảy ra đối với khu vực trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
Quy mô đào tạo đại học bắt đầu được mở rộng sau nhiều năm thu hẹp liên tục (từ 1980 đến 1986, cỡ -3% hàng năm); trong 3 năm 1987-1990 đã tuyển chọn được 81.500 sinh viên cho hệ chính quy và 37.493 sinh viên hệ mở rộng và tại chức (tăng chủ yếu là nhờ hệ đào tạo mở rộng); ở hệ chuẩn, chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm cũng đã tăng từ 21.730 (1987) lên 31.065 người (1990) bao gồm một loại chỉ tiêu nhưng gồm 2 diện: được học bổng và đóng học phí trong lúc đầu tư, kinh phí của nhà nước rất hạn chế.
Việc thực hiện quy trình đào tạo mới với những quy chế rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm của người đi học đã làm thay đổi sự cố gắng của sinh viên đối với việc học tập…, sinh viên đã chăm học và chủ động hơn; gia đình cũng quan tâm nhiều hơn tới việc học hành của con em mình…
Có thể khẳng định rằng quy trình đào tạo mới đã góp phần thúc đẩy việc tự học, tạo điều kiện phát huy sở trường của sinh viên và bước đầu đã xây dựng được động lực cần thiết để sinh viên phấn đấu ngày càng tốt hơn trong học tập rèn luyện.
Như vậy, giáo dục đại học đã “chạy” đúng hướng và thành công khi tự cứu mình. Chính tham khảo những bài học đổi mới giáo dục ở giai đoạn này mà Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã cho ra Nghị quyết 4 về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1993). Trước đó, Đại hội VII cũng đã khẳng định “cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo được xem là quốc sách hàng đầu”.
Khi các trường đại học đã được vực dậy, trong giai đoạn tiếp theo, từ năm học 1992-1993, dưới sự lãnh đạo của Giáo sư Trần Hồng Quân, ngành giáo dục đại học chúng ta lại có những chủ trương mới, hướng đi mới, con đường mới - đó là giai đoạn “xếp hàng” để ổn định lại cả hệ thống.
Ở giai đoạn này (từ năm học 1992-1993), Giáo dục đại học Việt Nam chuyển trọng tâm từ đổi mới quy trình đào tạo sang cải cách mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo.
Theo hướng đó, chúng ta đã triển khai hàng loạt các giải pháp quan trọng nhằm giúp cho giáo dục đại học Việt Nam thích ứng nhanh với việc chuyển đổi qua kinh tế thị trường, tiếp cận nhanh với giáo dục đại học quốc tế.
Các giải pháp giúp giáo dục đại học Việt Nam thích ứng nhanh với việc chuyển đổi qua kinh tế thị trường
- Thể chế hóa cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và hệ thống văn bằng, chứng chỉ ở bậc đại học với các trình độ đào tạo: cao đẳng, cử nhân/đại học, thạc sĩ và tiến sĩ…
- Từng bước sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học và cao đẳng trong cả nước với việc hình thành các loại hình cơ sở giáo dục đại học: (Viện) đại học đa lĩnh vực, trường đại học chuyên ngành và Trường đại học cộng đồng/đại học địa phương.
- Cấu trúc lại kiến thức đào tạo ở bậc đại học theo mô hình giáo dục đại học khai phóng (Liberal Arts Higher Education).
- Điều chỉnh quy trình đào tạo hai giai đoạn để mở ra cơ hội liên thông rộng cho sinh viên sau giai đoạn 1. Từng bước đưa hệ thống quản lý học tập theo học phần (hệ tín chỉ) vào các trường đại học và cao đẳng.
Đến năm 1994, giáo dục đại học bắt đầu chuyển sang chú trọng về bảo đảm chất lượng. Tại Hội nghị chuyên đề chất lượng Giáo dục đại học 11/1994 GS Trần Hồng Quân yêu cầu toàn ngành phải tập trung giải quyết tốt bài toán tương quan giữa chất lượng và số lượng, tương quan giữa các loại hình đào tạo, tiến tới chỉ có một loại văn bằng cho mỗi cấp học.
Theo Giáo sư, về chương trình đào tạo, chúng ta cố gắng sớm đạt ngang với trình độ đại học của các nước trong khu vực, trước hết về khoa học cơ bản, nhất là về lý thuyết, nỗ lực nâng dần về khoa học thực nghiệm và công nghệ; một cấp học chỉ có một chuẩn chất lượng, một loại bằng tốt nghiệp.
Chuẩn chất lượng được quy định là chuẩn tối thiểu; tiếp tục mở rộng đại học bằng nhiều cách nhưng không bằng phương thức “đại học mở rộng” theo cách hiểu và cách làm mấy năm qua.
Bộ trưởng cũng chỉ thị cho các đơn vị chức năng phải khẩn trương “xây dựng một hệ thống đầy đủ các tổ chức và quy trình kiểm định chất lượng đào tạo. Hệ thống này bao gồm các quy trình đánh giá bên trong và đánh giá từ bên ngoài cơ sở đào tạo”.
Những bước đi như trên thể hiện tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng” đã nói ở trên, chúng ta không phải vội vàng gấp gáp chạy mà còn chủ động “xếp hàng” để đi vào ổn định cho cả hệ thống khi đã vượt qua cơn khủng hoảng.
Những thành quả đổi mới giáo dục đại học trong giai đoạn 1987-1997 có còn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay hay không?
Giai đoạn 1987-1997 là thời kỳ sôi động nhất, luôn mang đến những gì mới mẻ nhất cho giáo dục đại học Việt Nam. Xin được liệt kê ra một số thành tựu nổi trội nhất ở thời kỳ này, còn mang đậm dấu ấn của Giáo sư Trần Hồng Quân cùng những cộng sự gần gũi của Anh.
1. Chuyển đổi hệ thống giáo dục đại học Việt Nam từ mô hình Liên xô cũ (chỉ thích hợp với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung) qua mô hình mới, phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần, hội nhập quốc tế. Theo Nghị định 90-CP của Thủ tướng Chính phủ về cơ cấu khung hệ thống giáo dục quốc dân và hệ thống văn bằng (11/1993), ở bậc giáo dục đại học có 4 trình độ là: cao đẳng (3 năm), cử nhân (4 năm trở lên), thạc sĩ và tiến sĩ.
Hai cấp đào tạo sau đại học là mới và đồng bộ với nhau. Việc đào tạo có thể tiến hành theo nhiều hình thức (tập trung và hình thức không tập trung) nhưng chỉ có một chuẩn chất lượng về văn bằng, kiên quyết xóa bỏ tình trạng chất lượng quá thấp, đặc biệt ở các hình thức đào tạo không tập trung.
Hệ thống này vẫn được duy trì cho tới nay và hoàn toàn phù hợp với hệ thống giáo dục đại học của phần đa quốc gia trên thế giới hiện nay (ISCED-2011). Điều đáng tiếc là hiện nay trình độ cao đẳng đã bị đẩy ra khỏi bậc giáo dục đại học, bị “nghề hóa”, gây khó cho việc triển khai “liên thông” và làm méo mó cơ cấu nhân lực quốc gia.
2. Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo đại học. Cấu trúc lại nội dung đào tạo ở bậc đại học theo mô hình giáo dục đại học khai phóng.
Mục tiêu đào tạo đại học trước đây nhằm phục vụ nền kinh tế “bao cấp”, nay phải chuyển sang đào tạo phù hợp với nền kinh tế thị trường và mở cửa.
Về cơ bản, phải đào tạo ra những con người tự chủ, năng động và sáng tạo, có khả năng cơ động tìm việc làm, tự lo việc làm, tiến thân, lập nghiệp trong “thị trường sức lao động”.
Do đó, nội dung, chương trình đào tạo đại học trên tinh thần vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Có những nội dung mang tính chất chung của thế giới và thời đại: khoa học, công nghệ, quản lý… và có những nội dung mang tính đặc thù của đất nước, văn hóa truyền thống dân tộc, do đó phải có cách lựa chọn phù hợp…
Đòi hỏi đó phù hợp với tư tưởng cơ bản của giáo dục đại học khai phóng – một xu hướng hiện đại của giáo dục đại học quốc tế. (Đặc điểm cốt lõi của giáo dục khai phóng bao gồm kiến thức đa ngành toàn diện, cùng với sự bồi dưỡng những phẩm chất trí tuệ như tư duy phản biện, giao tiếp, sáng tạo, tự học, giải quyết vấn đề và trách nhiệm xã hội. Phương pháp sư phạm mang tính tương tác và lấy người học làm trung tâm - theo tác giả).
Theo tinh thần đó, từ năm 1992, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương sắp xếp các chương trình đào tạo đại học và cao đẳng trên cơ sở chính thức quy định cấu trúc và khối lượng nội dung bậc đại học dựa trên những quan niệm mới phù hợp với những định hướng về mục tiêu đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định tại các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, với sự chuyển đổi kinh tế xã hội của đất nước, đồng thời tạo tiền đề để tiến tới sự tương đương văn bằng đại học với các nước trong khu vực (tại các quyết định số 2677 và 2678/GD-ĐTngày 3/1/1993 và công văn hướng dẫn số 59/ĐH ngày 4/1/1994).
Với quy định này, nội dung đào tạo ở bậc đại học được cấu trúc lại sẽ gồm hai bộ phận tách biệt: nội dung giáo dục đại cương (General Education) và nội dung giáo dục chuyên nghiệp (Professional Education); trong đó,nội dung giáo dục đại cương bao gồm các học phần mang tính cơ bản và liên ngành, nhằm giúp cho người học có tầm nhìn rộng, có thế giới quan khoa học và nhân sinh quan đúng đắn, hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người (trong đó có bản thân), nắm vững phương pháp tư duy khoa học, biết trân trọng các di sản văn hóa của dân tộc và nhân loại, có đạo đức, nhận thức trách nhiệm công dân, yêu Tổ quốc và có năng lực tham gia bảo vệ Tổ quốc, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Nội dung giáo dục chuyên nghiệp, trên cơ sở cơ bản hóa, phải xây dựng theo bình diện rộng, phải đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu của xã hội. Đối với đa số ngành đào tạo, phần lớn nội dung giáo dục đại cương được giảng dạy ở giai đoạn I, một phần nội dung này (như một số học phần về khoa học Mác-Lê Nin) được dạy tiếp tục qua giai đoạn II.
Nội dung giáo dục chuyên nghiệp nói chung chỉ được dạy ở giai đoạn II. Để thuận lợi cho việc thực hiện “liên thông” nội dung Giáo dục đại cương được cấu trúc thành 7 chương trình.
3. Triển khai quy trình đào tạo mới
Quy trình đào tạo cấp đại học theo 2 giai đoạn hay còn gọi là Quy trình đào tạo mới được đề xuất từ 1987 nhằm các mục tiêu quan trọng:
1. Tiêu chuẩn hóa và nâng cao chất lượng mặt bằng kiến thức cơ bản của bậc đại học (phần giáo dục đại cương);
2. Giúp cho cơ sở đào tạo và người học cơ hội để lựa chọn lại một lần nữa cho phù hợp giữa người và nghề; nói cách khác tạo khả năng dịch chuyển ngành nghề, liên thông và lọc lựa sau giai đoạn 1;
3. Góp phần đại chúng hóa nền đại học, giúp cho những đối tượng từ nhiều địa bàn và nhiều lĩnh vực khác nhau có cơ hội tiếp nhận học vấn đại học.
Mục tiêu của việc tổ chức lại quy trình đào tạo là: đào tạo theo diện rộng, phân chia quá trình đào tạo đại học thành 2 giai đoạn, áp dụng một học chế mềm dẻo theo nguyên tắc tích lũy kiến thức, nâng cao tính chủ động và phát huy sở trường của cá nhân từng người học.
Ngày 12/9/1995, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo đã ký Quyết định 3244/GD-ĐT ban hành tạm thời bộ chương trình mẫu về giáo dục đại học đại cương (giai đoạn I) dùng trong các trường đại học và các trường cao đẳng sư phạm.
Với bộ chương trình này, sinh viên thuộc phần lớn trường đại học và một số trường cao đẳng (chủ yếu là trường cao đẳng sư phạm đào tạo giáo viên trung học cơ sở) được đào tạo tập trung ở 3 học kỳ đầu (giai đoạn I) theo 7 chương trình : Các chương trình 1,2 và 3 áp dụng đối với sinh viên các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật-công nghệ, y-dược, nông–lâm- ngư,...
Chương trình 4 được áp dụng cho sinh viên các ngành kinh tế và quản trị kinh doanh. Chương trình 5 nhấn mạnh các kiến thức về khoa học-xã hội ; trong khi chương trình 6 chỉ áp dụng cho sinh viên các ngành nhân văn, văn hóa, nghệ thuật.
Chương trình 7 dành cho sinh viên nhóm ngành ngoại ngữ.
Với kết cấu nội dung đào tạo giai đoạn I như trên, khi chuyển sang giai đoạn II sinh viên từ cùng một chương trình có thể đăng ký vào nhiều ngành đào tạo khác nhau và ngược lại, cùng một ngành đào tạo ở giai đoạn II có thể nhận sinh viên từ một số chương trình khác nhau chuyển lên.
Những quy định như trên cùng với việc ban hành Quy chế về tổ chức đào tạo, kiểm tra, thi và công nhận tốt nghiệp cho các hệ đào tạo đại học và cao đẳng chính quy tại Quyết định số 3968/GD-ĐT ngày 14/10/1995 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và nếu như việc tuyển sinh vào đại học và cao đẳng được thực hiện chỉ theo 7 chương trình (mà không phải theo ngành học như trước đây) thì vấn đề liên thông chuyển đổi sinh viên giữa các trường và giữa các nhóm chương trình đào tạo cũng như việc ổn định hoạt động cho các cụm trường liên kết tổ chức theo từng địa phương (trong đó có các trường sư phạm) về cơ bản đã được giải quyết.
Như vậy nếu cả 3 giải pháp 1, 2 và 3 được các cơ sở giáo dục đại học nghiêm chỉnh triển khai đồng bộ (mà không chịu chi phối bởi các tư duy cục bộ, bản vị- như Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã chỉ ra) thì ngay từ năm học 1995-1996, chúng ta đã xây dựng được một hệ thống giáo dục đại học mở thực sự. Về sau mục tiêu xây dựng hệ thống giáo dục mở đã lại được nhắc đến tại Nghị quyết 29 và Luật giáo dục sửa đổi 2019.
Cho dù vậy nhưng một đóng góp to lớn không thể không nhắc tới là theo chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Trần Hồng Quân, Vụ Giáo dục Đại học đã vận dụng quy trình đào tạo mới và 7 chương trình giáo dục đại học đại cương để triển khai thành công chủ trương “đại học hóa” cho hệ thống các trường đào tạo theo chức danh (công an, quân đội), các trường của hệ thống chính trị-đoàn thể (tuyên huấn, công đoàn, thanh niên, phụ nữ) và các trường nghiệp vụ (kiểm sát, tòa án).
4. Sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học,cao đẳng
Chấp hành Chỉ thị 287/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ Giáo dục-Đào tạo chủ trương bố trí lại mạng lưới trường đại học, cao đẳng theo hướng hình thành ba loại trường cơ bản: Viện đại học đa lĩnh vực, Trường đại học/cao đẳng chuyên ngành và Trường Cao đẳng cộng đồng/Đại học địa phương.
Mạng lưới mới này cần phân bố hợp lý trên phạm vi cả nước (tránh để tồn tại những trường có quy mô quá nhỏ, những trường có ngành nghề trùng lặp không cần thiết, những trường có ngành nghề diện quá hẹp…), có tác dụng mở rộng đào tạo và bồi dưỡng nhân lực có trình độ cao, nâng cao dân trí, qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học của từng vùng cũng như của cả nước.
Tập trung xây dựng một số trung tâm chất lượng cao (trường, ngành học) ngang tầm với trình độ cao trong khu vực, làm những thí điểm đi trước vào hiện đại, tạo tiền đề mở rộng số lượng những trường, ngành học có chất lượng cao”.
Đó trước hết là các Viện đại học. “Viện đại học phải là loại trường đại học không phải chỉ gồm nhiều ngành mà gồm nhiều lĩnh vực đào tạo. Chính những Viện đại học như thế mới giúp nâng cao chất lượng đào tạo cho phần nội dung giáo dục đại cương trong chương trình đại học, đảm bảo sự liên kết và tích hợp tốt trong đào tạo và nghiên cứu khoa học, bảo đảm trở thành một trung tâm giáo dục khoa học, văn hóa lớn.
Viện đại học là nơi sáng tạo, bảo tồn và chuyển giao tri thức của dân tộc. Chúng ta có thể xây dựng nhiều loại hình trường khác nhau nhưng trong cả nước ít nhất có vài Viện đại học đủ mạnh.
Ngoài ra, tâm đắc với chỉ đạo của Hội đồng Bộ trưởng, GS Trần Hồng Quân cũng cho rằng việc sắp xếp mạng lưới các Viện đại học gắn với việc sắp xếp các Viện nghiên cứu sẽ tạo cơ hội lớn cho các Viện đại học của chúng ta thực hiện chức năng nghiên cứu khoa học, triển khai công nghệ; nhà trường là trung tâm khoa học và công nghệ. Quan điểm chỉ đạo này vẫn được giữ nguyên cho tới nay.
Về mặt tổ chức tại Tờ trình Hội đồng Bộ trưởng số 1315/ĐH ngày 17/3/1992, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu rõ Đại học đa lĩnh vực “không phải là một cơ quan quản lý trung gian mà thực chất là một đơn vị đào tạo thật sự quan trọng được lập ra trên cơ sở hợp nhất và tổ chức lại hàng loạt trường đại học và viện nghiên cứu khoa học để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống, bảo đảm hiệu suất đào tạo cao, thích ứng với một xã hội có nền kinh tế thị trường”.
Tuy nhiên, quá trình triển khai lại không phải như vậy. Vì nhiều lý do khác nhau (chủ yếu liên quan tới yếu tố con người, như có lần Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã chỉ ra), cuối cùng ở tất cả các đại học đa lĩnh vực được thành lập, cấu trúc 3 cấp là trường–khoa–bộ môn (kiểu quản trị của Liên Xô cũ) về căn bản vẫn được giữ nguyên ở các trường thành viên.
Kết quả là các đại học đa lĩnh vực đều có cấu trúc 4 cấp quản lý: đại học-trường đại học–khoa–bộ môn. Với cấu trúc như vậy, theo các chuyên gia WB, mô hình đại học của Việt nam “không giống ai” trên thế giới.
Cũng theo nhận xét của nhiều chuyên gia, sau hơn 30 năm qua, các đại học đa lĩnh vực của ta vẫn tồn tại dưới dạng một “liên hiệp các trường đại học chuyên ngành” với cấu trúc “đại học hai cấp” do các trường thành viên vẫn hoạt động gần như độc lập, không phối hợp với nhau, trước hết là về mặt đào tạo, nên đại học như xã hội và người học vẫn mong đợi.
Hệ thống các trường đại học địa phương/cao đẳng cộng đồng cũng được thành lập theo chỉ đạo của Bộ trưởng Trần Hồng Quân. Theo Giáo sư Trần Hồng Quân, hệ thống trường này cần được thành lập ở phần lớn các tỉnh chủ yếu nhằm 2 mục đích:
-Thực hiện sự phân cấp quản lý hợp lý đối với hệ thống giáo dục đại học nhằm khắc phục những hạn chế của một hệ thống giáo dục tập trung cồng kềnh vốn là sản phẩm của thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp.
- Mở ra sự công bằng hơn trong giáo dục đại học, tạo thuận lợi cho các vùng miền có mức độ phát triển kinh tế-xã hội khác nhau, nhất là ở những địa phương kinh tế-xã hội còn chậm phát triển, sớm đạt được sự phát triển đồng đều nhờ có nguồn nhân lực trình độ cao bám sát nhu cầu đặc thù của chính địa phương đó, do người dân của địa phương đó có thêm cơ hội thuận lợi được tiếp cận với giáo dục đại học.
Khác với các loại hình cơ sở giáo dục đại học khác, các trường địa phương/cộng đồng cần tuyệt đối tuân theo triết lý “của dân”, “vì dân” và “do dân”: Trường đại học địa phương là trường đại học của địa phương, được thành lập để phục vụ cho nhu cầu đào tạo nhân lực và dân trí của cộng đồng địa phương, do đó phải được Chính quyền và cộng đồng người dân địa phương nuôi dưỡng bằng khoản trích ra từ tiền thuế do chính họ đóng góp cho chính quyền địa phương.
Tuy nhiên, điều đáng buồn là tư tưởng này của Giáo sư Trần Hồng Quân đã không được các thế hệ sau tiếp thu trọn vẹn. Mới đây, một số địa phương vì những khó khăn trước mắt nên đã sẵn sàng "hy sinh" đứa con của mình.
GS. Trần Hồng Quân cũng đã từng chỉ ra hướng phát triển cho các cơ sở giáo dục đại học địa phương: Trường Cao đẳng sư phạm -> Trường Cao đẳng Cộng đồng -> Trường Đại học địa phương, tùy theo thực trạng tăng trưởng của mỗi địa phương.
Đáng tiếc là chúng ta đã không đi theo hướng phát triển đúng đắn đó, dẫn tới tình trạng hệ thống các cơ sở giáo dục đại học địa phương đang có nguy cơ bị “xóa sổ” hoặc bị “nghề hóa”, hoặc bị sáp nhập vào các trường trung ương để được “trung ương hóa”.
5. Giải quyết bài toán giáo viên phổ thông
Đáp ứng nhu cầu giáo viên cho hệ thống giáo dục phổ thông luôn là vấn đề nhức nhối của Giáo dục Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua và ngay cả cho tới nay: khi thừa khi thiếu, vùng này thừa vùng khác thiếu, ngành này thừa nhưng ngành khác thiếu, lúc có được nguồn tuyển sinh chất lượng nhưng cũng có lúc phải chấp nhận “chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”,…
Để giải quyết bài toán khó này, tại Hội nghị chuyên đề “Quy trình đào tạo mới trong các trường đại học”, tháng 10/1990, Bộ trưởng Trần Hồng Quân đã chỉ đạo:
“…Đào tạo đội ngũ giáo viên là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của ngành sư phạm. Hiện nay, cả nước có 80 vạn giáo viên phổ thông các cấp. Dù trong hoàn cảnh nào đi nữa thì đội ngũ này vẫn bám trường, bám lớp để duy trì hệ thống giáo dục phổ thông. Tuy nhiên, sự đối xử của xã hội đối với giáo viên phổ thông rất không thỏa đáng. Họ phải chấp nhận mức thu nhập thiệt thòi vì đối với đa số giáo viên không có các khoản thu nhập nào khác ngoài lương. Do đó, địa vị xã hội của người giáo viên rất thấp. Kết quả là các trường sư phạm rất khó tuyển chọn học sinh giỏi. Nhiều năm như vậy, nhiều thế hệ như vậy cứ thế kế tiếp nhau, dẫn tới hiện tượng “lịm dần” về chất lượng đào tạo của các trường sư phạm, ảnh hưởng sâu xa đến chất lượng nền giáo dục quốc dân.
Thực tế cho thấy hiện nay phần lớn địa phương đã hết chỉ tiêu nhận giáo viên. Do vậy, nếu không tính toán cách khác thì xu hướng tất yếu là phải ngừng việc đào tạo giáo viên các trường sư phạm.
Để giải quyết bế tắc này, chúng ta cần thay đổi quan niệm. Đó là: Các trường sư phạm không nên chỉ đào tạo giáo viên phổ thông và giáo viên phổ thông cũng không nên chỉ được đào tạo ở các trường sư phạm.
Các trường đại học sư phạm nên được tổ chức lại để trở thành những trường khoa học cơ bản đào tạo giáo viên, cán bộ nghiên cứu khoa học đặc biệt là khoa học giáo dục, cán bộ quản lý xã hội, đồng thời đào tạo nguồn vào giai đoạn II cho các trường đại học chuyên ngành khác.
Đại học sư phạm cũng nên là một trường đào tạo giáo viên cho nhiều cấp: cả đại học, cả cao đẳng, cả sư phạm cấp 1, sư phạm mẫu giáo… Với cách đặt vấn đề như vậy, các trường đại học sư phạm sẽ có nhiều mục tiêu đào tạo. Các vụ chức năng của Bộ phải phối hợp với nhau để giúp các trường đại học sư phạm làm điều đó.
Mặt khác, một số loại hình giáo viên phổ thông nên được đào tạo ở các trường đại học kỹ thuật, văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao… Theo hướng đó, cần sớm thành lập ở những trường này các khoa hoặc bộ môn sư phạm.
Trong tương lai, các trường cao đẳng sư phạm địa phương sẽ dần chuyển thành các trường đa lĩnh vực (tức trường đại học địa phương), trong đó vẫn giữ nhiệm vụ nòng cốt là đào tạo giáo viên…”.
6. Chuyển các trường trung học chuyên nghiệp đủ điều kiện lên cao đẳng, đặt tiền đề cho sự phân luồng sinh viên ở bậc giáo dục đại học
Trước khi đất nước đổi mới, hệ thống trường trung học chuyên nghiệp (THCH) có trách nhiệm đào tạo những cán bộ thực hành có trình độ trung học kỹ thuật, nghiệp vụ kinh tế, giáo dục, văn hóa, y tế và những cán bộ trung học chuyên nghiệp/kỹ thuật viên có nhiệm vụ tổ chức và hướng dẫn công nhân thực hiện những quy trình công nghệ đã được quy định hoặc thực hiện từng phần trong công tác nghiên cứu thiết kế. Trường trung học chuyên nghiệp tuyển sinh hai trình độ:
- Đối với các ngành đào tạo không yêu cầu cao về mặt công nghệ, tuyển sinh học sinh tốt nghiệp phổ thông cơ sở đào tạo trong thời gian 3 + 3,5 năm, khi tốt nghiệp có trình độ văn hóa tương đương phổ thông trung học và trình độ chuyên môn bậc trung học nhằm phục vụ chủ yếu cho nhu cầu các địa phương và được cấp bằng trung học chuyên nghiệp.
- Đối với các ngành đòi hỏi trình độ công nghệ cao và nghiệp vụ phức tạp thì tuyển học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học, đào tạo trong thời gian 2 + 2,5 năm và được cấp bằng trung học chuyên nghiệp. Những cơ sở giáo dục loại này có thời gian còn mang tên gọi là trường trung cao (thí dụ: Trường trung cao Cơ–Điện).
Tuy nhiên, trong xu thế phát triển của đất nước, xuất hiện nhu cầu cần có những kỹ thuật viên được đào tạo ở những trình độ cao hơn.
Nắm bắt nhu cầu đó, Bộ trưởng Trần Hồng Quân đã chỉ đạo tại hội nghị Giáo dục đại học 1993: “Hiện nay, ở nước ta rất thiếu các cơ sở đào tạo nhân lực lao động có trình độ cao đẳng thực sự và điều này tạo ra sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các thành phần cán bộ ở trình độ sau trung học (cán bộ có trình độ đại học quá nhiều, cán bộ có trình độ cao đẳng ít; trong khi ở các nước tỷ lệ này thường là 1:1).
Nhằm khắc phục sự mất cân đối đó, cần xác định mục tiêu và nội dung, chương trình đào tạo kỹ thuật viên và nhanh chóng chuyển những trường trung học chuyên nghiệp mạnh lên bậc cao đẳng”.
Với chủ trương này, hàng trăm trường cao đẳng chuyên nghiệp cấp bằng cao đẳng “thứ thiệt” đã được nâng cấp từ các trường trung học chuyên nghiệp, đáp ứng kịp thời yêu cầu về nguồn nhân lực kỹ thuật viên bậc cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
Động thái này cũng tạo ra tiền đề để những năm tiếp sau hình thành trong Hệ thống Giáo dục quốc dân luồng giáo dục đại học chuyên nghiệp/công nghệ/ứng dụng bên cạnh luồng giáo dục đại học định hướng nghiên cứu /học thuật đã có từ trước.
Ở luồng mới này, liên thông không diễn ra theo quy trình đào tạo mới (giai đoạn I-giai đoạn II) mà theo lộ trình: đào tạo Kỹ thuật viên (Technician) -> đào tạo Chuyên viên công nghệ (Technologist).
Điều đáng buồn là với quyết định hợp nhất loại trường này với loại trường cao đẳng nghề theo Luật Giáo dục nghề nghiệp nhân lực kỹ thuật viên hoàn toàn bị loại bỏ khỏi dây chuyền sản xuất ở nước ta những năm gần đây.
7. Đặt nền móng hình thành hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập
Nghị quyết TW4 khóa 7 (1993) về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã công nhận sự tồn tại của các loại trường đại học dân lập, bán công và tư thục mà trước đây chưa hề có tại Việt Nam, với ý định hệ thống trường này sẽ bổ sung cho hệ thống đại học công lập đang có nhằm thỏa mãn yêu cầu quá cao của nhân dân về chỗ học.
Quan điểm của Bộ trưởng Trần Hồng Quân khi đó là cần phải có sự chia sẻ chi phí từ phía xã hội, hay như ngày nay thường gọi là xã hội hóa giáo dục.
Theo Giáo sư, trong điều kiện cụ thể nước ta, nhà nước nên có quan điểm xem giáo dục công lập và giáo dục ngoài công lập giống như hai chiếc cánh của hệ thống giáo dục quốc dân; cả hai cánh đều phải khỏe, cân đối thì Giáo dục Việt Nam mới có thể bay cao, bay xa.
“…Bộ sẽ thể chế hóa các loại hình trường mới này theo tinh thần một mặt tạo thuận lợi cho việc mở trường và không bóp nghẹt đi những sáng kiến riêng, mặt khác vẫn có thể kiểm soát chặt chẽ về mặt chất lượng đào tạo và hoạt động tài chính...”.
Trên tinh thần đó, trong nhiệm kỳ của Bộ trưởng Trần Hồng Quân, các quy chế đầu tiên về các loại hình trường đại học dân lập, bán công và tư thục đã lần lượt được xây dựng và ban hành, tạo căn cứ pháp lý cho sự ra đời của hàng loạt các trường đại học ngoài công lập.
Còn một loại trường nữa, chẳng phải công chẳng phải tư cũng chẳng phải bán công, đó là trường trực thuộc các tập đoàn kinh tế lớn nhà nước, cũng ra đời lần đầu tiên theo chỉ đạo của Bộ trưởng Trần Hồng Quân.
Ở đây tôi muốn nói tới Học viện Công nghệ Bưu chính-Viễn thông trực thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông (VNPT). Việc thành lập Học viện là một thử nghiệm nhằm bắn một mũi tên trúng nhiều mục tiêu: giảm gánh nặng từ ngân sách nhà nước, gắn kết doanh nghiệp với nhà trường, gắn kết hoạt động đào tạo với nghiên cứu khoa học, định hướng công nghệ mũi nhọn.
Điểm nổi trội là ngay từ khi thành lập Học viện, tuy không nhận một đồng nào từ nhà nước nhưng lại được nhận hỗ trợ thường xuyên và to lớn trực tiếp từ VNPT- một doanh nghiệp tự chủ.
Nhờ đó, Học viện Công nghệ Bưu chính-Viễn thông đã nhanh chóng phát triển để trở thành một trung tâm đào tạo chất lượng cao tại Việt Nam.
Rõ ràng đây là “nhân tố mới” trong giáo dục đại học rất cần được tổng kết và nhân rộng ra cả nước. Điều đáng tiếc là Học viện đã bị chuyển về trực thuộc Bộ Thông tin-Truyền thông để hoạt động theo cơ chế “tự chủ tài chính”, chấm dứt hoàn toàn các nguồn hỗ trợ nhiều năm từ VNPT. Đến nay, nguồn thu chủ lực của Học viện có lẽ chỉ từ “học phí cao” nhờ vào thương hiệu đã có được trước đây.
8. Duy trì và mở rộng quy mô đào tạo đại học
Nhằm tiếp tục mở rộng quy mô đào tạo đại học tại Hội nghị Hiệu trưởng các trường đại học và cao đẳng toàn quốc ở Hà nội (8/1993), Bộ trưởng Trần Hồng Quân đã chỉ đạo triển khai các giải pháp:
- Cho các trường đại học và cao đẳng được chủ động đề xuất chỉ tiêu tuyển sinh tối đa
“Từ năm học1993-1994, những ràng buộc của cơ chế tập trung bao cấp đã bị xóa bỏ, các trường được quyền định cho mình chỉ tiêu tuyển sinh dựa vào khả năng đào tạo, nhu cầu xã hội và chất lượng đầu vào. Do đó, trên thực tế từ năm học này, cả 2 hệ đào tạo chính quy và mở rộng đã hội tụ làm một.
Một số trường có nhu cầu đào tạo cho các đối tượng đang đi làm, có tuổi ngoài độ tuổi tuyển sinh chính quy. Đối với những đối tượng như vậy, ngoài loại hình đào tạo tại chức và chuyên tu đã có (được đào tạo theo các chương trình riêng và cấp văn bằng riêng), từ năm học 1993-1994, Bộ cho mở thêm hệ bán thời gian.
Sinh viên hệ toàn thời gian (chính quy thông thường) và sinh viên hệ bán thời gian về cơ bản học cùng nội dung, chương trình, được đánh giá theo cùng một chuẩn mực; hai hệ này chỉ khác nhau về phương thức tuyển sinh và thời gian đào tạo; do đó sinh viên tốt nghiệp ở hai hệ sẽ được cấp cùng một loại văn bằng chính quy.
Cũng nên nhận thấy rằng với việc hệ đào tạo tại chức đang dần dần đổi mới nội dung chương trình đào tạo theo xu hướng tích cực, sau một vài năm nữa, cả hai hệ bán thời gian và tại chức sẽ chụm lại làm một, mặc dù trước mắt, giữa hai hệ này vẫn còn một số điểm khác biệt”.
- Xây dựng và phát triển hệ thống trường đại học mở nhằm tạo ra sự bình đẳng cho nhân dân về cơ hội được tiếp nhận học vấn đại học, đồng thời góp phần tăng nhanh số lượng sinh viên đại học.
Khác với các trường đại học truyền thống, các trường đại học mở chấp nhận nguồn tuyển sinh tự do; nói chung không hạn chế số lượng người đăng ký học; có phương thức đào tạo đa dạng: từ xa, tại chỗ, tại các cơ sở vệ tinh; có chi phí đào tạo thấp (có thể chỉ bằng 1/10 chi phí đại học truyền thống) do tận dụng được lực lượng cán bộ giảng dạy và cơ sở vật chất ở tất cả các trường, các cơ sở nghiên cứu, dịch vụ và sản xuất còn dư công suất”.
Đại học mở xây dựng quy trình đào tạo thích hợp trên tinh thần mở rộng đầu vào và tạo mọi điều kiện dễ dàng cho người học, đồng thời có các biện pháp và công nghệ đặc biệt để đánh giá kết quả học tập đảm bảo chất lượng, kể cả cho hệ đào tạo từ xa và tại chỗ.
Đã có 2 trường đại học mở được thành lập theo chủ trương này. Tuy nhiên theo thời gian tính “mở” của 2 trường này đã dần biến mất mặc dù tên “đại học mở” vẫn giữ.
9. Triển khai quá trình dân chủ hóa trong sinh hoạt nhà trường. Tăng cường quyền tự chủ của các trường về mặt quản lý
Việc triển khai bầu Hiệu trưởng thực hiện ngay từ những năm đầu đổi mới đã được coi là sự thay đổi mạnh mẽ và sâu sắc nhất trong sinh hoạt nhà trường. Đi kèm là chủ trương xóa bỏ việc bổ nhiệm thủ trưởng không thời hạn, thực hiện nhiệm kỳ hóa chức vụ Hiệu trưởng với việc giới hạn tối đa giữ chức vụ để tạo điều kiện cho lớp trẻ năng động, sáng tạo kế thừa và nối tiếp nhau tham gia quản lý nhà trường.
Việc lựa chọn Hiệu trưởng là do quần chúng quyết định trong quá trình khảo sát, cân nhắc của cử tri. Cán bộ quản lý trong trường sẽ dần chuyển sang hưởng chế độ phụ cấp và mọi cán bộ quản lý chủ chốt của nhà trường sẽ hưởng thang lương chuyên môn.
Một số không ít trường sau khi bầu đã có những thay đổi sâu sắc và toàn diện được xã hội thừa nhận. Kết quả triển khai cuộc vận động cho phép đúc kết nhiều kinh nghiệm quý báu, củng cố lòng tin vào quần chúng, vào sự tự giác, trách nhiệm và đúng đắn trong lựa chọn của quần chúng. Kết quả cũng cho phép hoàn chỉnh hệ thống văn bản quy trình, tiêu chuẩn để có thể tiến tới triển khai trong toàn ngành.
*
* *
Để kết thúc bài viết này, tôi nghĩ rằng Ngành giáo dục hoàn toàn có quyền tự hào về những gì giáo dục đại học đã làm được dưới sự lãnh đạo của Giáo sư Trần Hồng Quân ở thời kỳ 1987-1997.
Chúng thực sự đóng vai trò khai phá, đặt nền móng cho công cuộc đổi mới giáo dục đại học ở nước ta cho tới nay. Đối với chúng tôi, những cộng sự gần gũi của Giáo sư Trần Hồng Quân, Anh thực sự là “nhà đổi mới trong giáo dục đại học” và xứng đáng được Nhà nước và xã hội công nhận danh hiệu cao quý “Anh hùng lao động ngành giáo dục của thời kỳ đổi mới”.
Nhân ngày giỗ đầu của Giáo sư Trần Hồng Quân, xin được thắp một nén nhang trước bàn thờ Anh để được tri ân về những đóng góp to lớn của Anh cho sự nghiệp phát triển giáo dục đại học Việt Nam, để mọi thế hệ sau biết tường tận hơn về Anh và luôn nhớ đến Anh.
Tài liệu tham khảo
Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, Một số tư liệu về đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 1987-1997, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2017.
Nguồn: https://nhandan.vn/nho-ve-mot-thoi-ky-soi-dong-post889427.html
Bình luận (0)