Với loạt các chính sách lãi suất ưu đãi hỗ trợ khách hàng, đặc biệt nhóm khách hàng trẻ, người có thu nhập thấp… đã và đang tạo áp lực lên các nhà băng.
Ghi nhận, khối ngân hàng quốc doanh tiên phong triển khai nhiều gói cho vay với lãi suất ưu đãi, kéo theo đó các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) cũng phải điều chỉnh để duy trì cạnh tranh. Hệ quả, NIM toàn ngành giảm còn 3,18% trong quý II/2025, từ mức 3,31% của quý đầu năm.
NIM các ngân hàng chạm “đáy”
Đáng chú ý, đây là mức NIM thấp nhất kể từ năm 2018, báo cáo từ S&I Ratings ghi nhận.
NIM (Net Interest Margin) là tỷ suất lợi nhuận ròng của một ngân hàng hoặc tổ chức tài chính, thể hiện sự chênh lệch giữa thu nhập lãi từ các khoản cho vay và đầu tư với chi phí lãi phải trả cho tiền gửi và các nguồn vốn khác, trên tổng tài sản có sinh lời. Chỉ số này thường được biểu thị bằng phần trăm và là một trong những chỉ số quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lời của ngân hàng.

NIM các ngân hàng chạm “đáy” (Ảnh: Báo cáo S&I Ratings).
S&I Ratings dự báo, sức ép về NIM thời gian tới vẫn hiện hữu, chủ yếu do lãi suất cho vay đã giảm 60 điểm so với cuối năm 2024 trước định hướng giữ mặt bằng lãi suất thấp của Ngân hàng Nhà nước để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Cùng với đó, chi phí vốn toàn ngành tăng khoảng 25 điểm so với cùng kỳ do các ngân hàng tăng cường huy động kỳ hạn dài để đáp ứng nhu cầu tín dụng.
Dù vậy, lợi nhuận ngành dự báo vẫn tiếp tục được hỗ trợ tích cực bởi thu nhập ngoài lãi, cụ thể là các khoản thu từ nợ xấu đã xử lý tăng gấp đôi. Khoản thu từ nợ xấu của khối ngân hàng trong kỳ ghi nhận tăng đến 108% nhờ thị trường bất động sản phục hồi, giúp thúc đẩy quá trình thu hồi nợ.
Nổi bật là Vietinbank (mã chứng khoán CTG) thu 7.800 tỷ đồng, BIDV (mã chứng khoán BID) thu về 6.300 tỷ đồng, VPBank (mã chứng khoán VPB) thu 5.200 tỷ đồng.
Song song đó, các ngân hàng cũng ghi nhận thu nhập từ giao dịch mua bán chứng khoán tăng mạnh (tăng trưởng 77%), đóng góp đáng kể cho lợi nhuận toàn ngành trong quý II/2025.
Điểm sáng từ xử lý nợ xấu
Liên quan đến chất lượng tài sản toàn ngành, tại thời điểm 30/6, chất lượng nhìn chung cải thiện rõ rệt, trừ một số ngân hàng quy mô nhỏ. Trong đó, tỷ lệ nợ nhóm 2 giảm xuống 1,24% (so với 1,61% cuối quý I) – mức thấp nhất trong 3 năm qua. Nợ xấu cũng hạ về mức 2,03%.

Ngân hàng đã xử lý 37.100 tỷ đồng nợ xấu trong quý II/2025 (Ảnh: S&I Ratings).
Theo S&I Ratings, diễn biến tích cực này đến từ hiệu ứng kĩ thuật khi tín dụng tăng mạnh, giúp kéo giảm tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay. Song song, các ngân hàng cũng đẩy mạnh hoạt động xử lý nợ xấu, với 37.100 tỷ đồng nợ được xử lý trong quý II.
Đáng chú ý, một số ngân hàng lớn MBBank, SHB, VPBank đã đẩy mạnh trích lập dự phòng trong bối cảnh chất lượng tài sản cải thiện. Ngược lại, PGBank và VietABank (mã chứng khoán VAB) lại giảm trích lập mặc dù nợ xấu tăng.
Theo Nghị định 86/2024/NĐ-CP, tài sản bảo đảm là bất động sản nếu quá 2 năm kể từ khi các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền xử lý, sẽ không còn được khấu trừ khi tính dự phòng. Quy định này có thể làm gia tăng chi phí dự phòng, đặc biệt tại những ngân hàng có tỷ lệ nợ nhóm 5 duy trì ở mức cao và kéo dài.
Trong ngắn hạn, S&I Ratings đánh giá nợ xấu toàn ngành nhiều khả năng duy trì đà giảm nhẹ. Tuy vậy, trong trung và dài hạn, tăng trưởng tín dụng cao có thể tạo áp lực lên chất lượng tài sản do nợ xấu thường có độ trễ hình thành.
Các ngân hàng đẩy mạnh cho vay bất động sản và chứng khoán
Về tăng trưởng tín dụng, nửa đầu năm toàn ngành đạt mức tăng 9,9% - mức cao nhất hơn một thập kỷ qua.
Ngày 31/7, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng hạn mức tín dụng cho các ngân hàng đã hoàn thành 80% hạn mức được cấp đầu năm, tạo thêm dư địa tăng trưởng cho các tháng còn lại. S&I Ratings đánh giá mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16% của Chính phủ là khả thi và có thể đạt mức 17 – 18% cả năm nếu nhu cầu vốn duy trì tích cực cùng với đà phục hồi của nền kinh tế.

Tăng trưởng tín dụng các ngân hàng (Ảnh: Báo cáo S&I Ratings).
Nửa đầu năm, nhóm NHTMCP (đặc biệt là các ngân hàng chuyên cho vay doanh nghiệp) tiếp tục là động lực chính. Liệt kê có VPBank tăng trưởng 18,7%, HDBank tăng trưởng 15,3%, NamABank tăng trưởng 14,7%...
Xét theo lĩnh vực cho vay, hầu hết các ngành sản xuất, xây dựng và thương mại – dịch vụ đều đóng góp tốt vào mức tăng tín dụng toàn hệ thống.
Trong khi đó, tỷ trọng giải ngân kinh doanh bất động sản và dịch vụ tài chính vẫn đang chiếm ưu thế ở một số ngân hàng. So với cuối năm 2024, dư nợ cho vay chủ đầu tư bất động sản tại Ngân hàng SHB tăng 41.000 tỷ đồng, theo sau Techcombank tăng 40.000 tỷ đồng, MBBank tăng 21 nghìn tỷ đồng.
Cho vay các công ty chứng khoán cũng tăng mạnh, đơn cử NamABank tăng 15.000 tỷ đồng, VPBank tăng 13.000 tỷ đồng…
Nguồn: https://dantri.com.vn/kinh-doanh/nim-cham-day-dau-la-vu-khi-bi-mat-giup-cac-ngan-hang-thang-lon-20250919154714636.htm
Bình luận (0)