Với 24.300 ha và trên 37 ngàn tấn nhân, cà phê Sơn La chỉ chiếm trên 3% diện tích và 2% sản lượng cà phê cả nước, nhưng lại rất nổi tiếng. Vì cà phê Sơn La là cà phê chè (Arabica), còn cả nước, chủ yếu là cà phê vối (Robusta). Có gần 10 tỉnh trồng cà phê Arabica, nhiều nhất là Sơn La, Lâm Đồng, Đắc Lắc, Quảng Trị và Điện Biên. Lâm Đồng vốn là tỉnh dẫn đầu, nhưng hiện nay Sơn La vươn lên dẫn đầu, chiếm 50% diện tích và hơn 43% sản lượng cả nước. Điều kiện tự nhiên (địa hình, độ cao, thổ nhưỡng, khí hậu) ở Sơn La rất phù hợp để phát triển cà phê Arabica chất lượng cao. Đặc biệt là khí hậu mát mẻ, sương mù nhiều, biên độ nhiệt giữa các mùa, giữa ngày và đêm chênh lệch lớn đã tạo cho cà phê Sơn La có sự khác biệt là màu hổ phách, chua nhẹ nhàng, hậu đắng ngọt nhẹ nhàng, phảng phất đa dạng hương vị tự nhiên của hoa quả, mật ong, được đánh giá ngang với chủng loại cà phê thơm ngon, quyến rũ nhất của thế giới. Chính vì vậy mà từ năm 2017, cà phê Sơn La được bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Đây là đối tượng sở hữu công nghiệp có giá trị cao nhất, không những là tài sản địa phương mà còn là tài sản quốc gia. Phát huy bảo hộ chỉ dẫn địa lý, vùng cà phê Sơn La được thực hiện đồng bộ các giải phát phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, gần 80% lượt diện tích được các tổ chức quốc tế và trong nước chứng nhận.
Thực hiện liên doanh, liên kết giữa doanh nghiệp, HTX và hộ gia đình, tạo chuỗi sản xuất bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng, sạch, an toàn. Sản phẩm cà phê Sơn La chủ yếu là cà phê nhân nguyên chất. Ngoài ra còn có sản phẩm rang, xay, chế biến bột hoặc chế biến thành các sản phẩm cà phê cao cấp như cà phê hòa tan, cà phê túi lọc, cà phê đặc sản, cà phê mật ong, trà vỏ cà phê. Có 01 sản phẩm ô cốp 5 sao và 4 sản phẩm 4 sao được thị trường thế giới rất ưa chuộng, cà phê Sơn La trên 95% là xuất khẩu (cả nước là trên 80%). Giá trị xuất khẩu cà phê Sơn La trên 90 triệu USD (2024), chiếm trên 50% giá trị nông sản xuất khẩu toàn tỉnh. Với giá cả như hiện nay, bình quân mỗi ha cà phê cho doanh thu từ 170-200 triệu đồng/ha, lợi nhuận hơn 140 triệu đồng/ha sau khi trừ chi phí. Đây là mức thu nhập cao nhất trong các cây trồng, góp phần nâng cao đời sống cho gần 2 vạn hộ trồng cà phê, một bộ phận khá lớn đã vươn lên làm giàu, nhiều bản đã thành bản tỷ phú. Như vậy việc lựa chọn và tập trung đầu tư đồng bộ, khuyến khích phát triển cây cà phê đã trở thành cây công nghiệp chiến lược là sự lựa chọn đúng đắn, phát huy hiệu quả tốt, góp phần tạo nên tên tuổi cho Sơn La.
Tiềm năng phát triển, năng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả cà phê Sơn la còn rất lớn. Nhưng cà phê Sơn La cũng đang đứng trước nhiều thách thức. Cà phê Sơn La trước năm 2015 phát triển chậm, 25 năm chỉ được trên 10 ngàn ha. Giai đoạn 2016-2020 đi vào ổn định trên dưới 16 ngàn ha. Từ năm 2021 đến nay phát triển nóng, vượt xa định hướng của Bộ Nông nghiệp và Môi trường và đề án của tỉnh. Theo Hiệp hội cà phê tỉnh, mấy năm gần đây do giá cao, tương đối ổn định, nông dân say sưa đẩy diện tích cà phê toàn tỉnh có thể đã lên trên 30.000 ha, chứ không phải trên dưới 25 ngàn ha. Đề án của tỉnh ổn định khoảng 16 ngàn ha vào năm 2025. Một số nơi cà phê đã lên đồi cao, độ dốc lớn, thiếu nước tưới, không bảo đảm điều kiện cho năng suất và chất lượng. Chất lượng cà phê không đều, ảnh hưởng đến uy tín, thương hiệu chung. Nguy hại hơn, nếu việc phát triển cà phê mà xâm hại vào đất rừng, đất lâm nghiệp, thì việc xuất khẩu có thể bị tẩy chay, nhất là xuất khẩu vào các nước EU (giồng như bị thẻ vàng đối với đánh bắt cá xuất khẩu). Hướng chiến lược của Tỉnh là ổn định diện tích (trên dưới 16 ngàn ha) như định hướng của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tập trung cải tạo giống, tăng diện tích đặc sản, thâm cạnh, tăng năng suất, tăng chất lượng. Cần chủ động kiểm soát diện tích, không để các hộ mở rộng tự phát.
Phần lớn cà phê Sơn La hiện nay là giống catimor thiếu sự lựa chọn kỹ càng, năng suất, chất lượng không đều, trên dưới 50% đã già, diện tích cần được trồng tái canh (cắt ghép và trồng lại bằng giống mới). Vấn đề không chỉ nguồn giống, kỹ thuật, mà còn là tư tưởng, tâm lý, cần có lộ trình, bước đi để bảo đảm duy trì nguồn thu cho các hộ, bảo đảm nguồn cà phê chế biến, xuất khẩu của các doanh nghiệp, HTX để duy trì chuỗi cung ứng, xuất khẩu. Vấn đề lớn của Sơn La là cà phê phụ thuộc vào nước trời. Mùa khô thì khô hạn, mùa mua thì cường độ lớn, xói mòn, rửa trôi mạnh. Tưới phun nhỏ giọt giữ ẩm chi phí lớn, hay bị tắc, khó mở rộng (vì nước tỷ lệ vôi cao). Trồng cây che bóng, sử dụng chế phẩm giữ ẩm, áp dụng kỹ thuật phòng ngừa, hạn chế rửa trôi đất màu, vi khoáng, tuy chí phí tăng lên, nhưng cũng cần được quan tâm hơn.
Cà phê Sơn La hiện nay mới có khoảng 50% diện tích là được liên doanh, liên kết, sản xuất, chế biến công nghiệp, tạo chuỗi giá trị xuất khẩu, còn 50% là do các hộ sản xuất, sơ chế, tiêu thụ trên thị trường, vừa không bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng, vừa gây ô nhiễm môi trường (nhất là ô nhiễm nguồn nước mặt và nguồn nước ngầm). Ô nhiễm nguồn nước do chế biến nông sản, nhất là chế biến cà phê nhỏ lẻ có thể còn nghiệm trọng hơn. Nhiều hộ khoan nước ngầm để sử dụng trong sinh hoạt và phục vụ sản xuất phát hiện nước ngầm bị ô nhiễm.
Cà phê Sơn La hơn 95% là xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu (cà phê nhân), nên chưa tạo dựng được thương hiệu đối với người tiêu dùng. Toàn tỉnh tham gia xuất khẩu nông sản trị giá trên dưới 200 triệu USD, riêng cà phê chiếm trên 50%. Nhưng theo Bộ Công thương, năm 2024, giá trị kim ngạch xuất khẩu của Sơn La chỉ có 34 triệu USD. Chứng tỏ Sơn La trực tiếp xuất khẩu và xuất khẩu chính ngạch còn ít, mới chủ yếu là xuất khẩu qua đầu mối khác và xuất khẩu tiểu ngạch. Có nghĩa là chúng ta chưa thực sự "dong thuyền ra biển lớn". Về đóng góp của ngành hàng cà phê cho ngân sách tỉnh cũng chưa có số liệu chính thức, nhưng chắc còn khiêm tốn. Một vấn đề khác cũng cần được quan tâm là, cà phê Sơn La mới chế biến tinh khoảng 5% (thành phẩm đến tay người tiêu dùng), chủ yếu phục vụ người tiêu dùng nội địa. Nhưng người tiêu dùng nội địa đang quen cà phê có hương vị đắng đậm, chưa quen, chưa chuộng cà phê có độ chua nhẹ như cà phê Sơn La. Hơn nữa, thế hệ thưởng thức cà phê đang chuyển dần từ cà phê nguyên chất sang cà phê giải trí, cà phê thời trang (có pha trộn các loại cà phê và nhiều thứ hương liệu khác). Do đó, chế biến tinh nên thế nào, mức độ nào, cho đối tượng, cho thị trường ngách nào cũng là vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu kỹ.
Từ năm 2021, mục tiêu của tỉnh đặt ra đến năm 2030 là ổn định diện tích 16.000 ha, tập trung tải canh bằng các giống chất lượng tốt với quy mô lớn (10 ngàn ha), tăng cà phê đặc sản lên 6 ngàn ha. Xây dựng 80-90% diện tích cà phê vùng nguyên liệu đạt chuẩn được chứng nhận sản xuất bền vững, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Nâng năng suất cà phê nhân bình quân/ha từ 1,5-1,7 tấn hiện nay lên 2-2,5 tấn, sản lượng cà phê nhân tiêu chuẩn trên 35 ngàn tấn. Tăng chế biến tập trung, công nghệ tiên tiến, hiện đại, được xử lý nước thải từ 50% lên 80-90%. Cà phê xuất khẩu giữ ở mức 90%, chế biến sâu tăng từ 5% lên 10%.
Mục tiêu phù hợp, tích cực, nhưng tốc độ thực hiện từ năm 2021-2025 có mặt còn chậm, cần có biện pháp đồng bộ để đẩy lên. Nhu cầu vốn tương đối lớn, khoảng 1.800 tỷ đồng, trong đó vốn hỗ trợ của ngân sách khoảng 300 tỷ đồng, vốn tín dụng ưu đãi và vốn của các doanh nghiệp, HTX và hộ gia đình khoảng 1.500 tỷ. Vốn ngân sách chủ yếu phụ thuộc vào lồng ghép nguồn chương trình mục tiêu quốc gia và nguồn đầu tư cho vùng miền núi, dân tộc. Tiềm lực kinh tế của các hộ trồng cà phê ở nhiều nơi khá mạnh, trình độ kỹ thuật, sản xuất kinh doanh đã nâng cao, có tinh thần chủ động, sáng tạo, đây là điều kiện có thể huy động tăng cường đầu tư.
Theo Liên hiệp các hội KH&KT, hội thảo lần này tập trung vào thực trạng phát triển cây cà phê với góc nhìn đa chiều. Tháng 10 tới đây, thừa ủy nhiệm của Liên hiệp các hội KH&KT Việt Nam, Liên hiệp các hội KH&KT tỉnh tiếp tục phối hợp với Sở Nông nghiệp và môi trường tổ chức hội thảo sâu hơn về tác động của chính sách đến phát triển cây cà phê ở Sơn la, cũng dưới góc nhìn đa chiều. Cà phê Sơn La có lúc trầm (1990-2015), công ty cà phê cây ăn quả phải phá sản, nguồn vốn khó thu hồi 73 tỷ đồng. Từ 2016-2020 bắt đầu thăng, thăng mạnh nhất là 2021-2025. Chứng tỏ bên cạnh tác động tích cực của chính sách của tỉnh, thì mức độ thành công của cà phê Sơn La còn chịu ảnh hưởng lớn của thị trường, giá cả và sự phát triển của công nghệ (giống và chế biến). Sự thay đổi vị thế (thăng trầm) của một số cây truyền thống, nhất là cây ngô, cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc chuyển đổi nhanh, chậm sang phát tiển cây công nghiệp, cây ăn quả, trong đó có cây cà phê. Để đánh giá đầy đủ tác động của chính sách cần có số liệu đầy đủ hơn về kết quả thực tế hỗ trợ của ngân sách, vốn tín dụng cho từng đối tượng doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình trồng cà phê, vốn ngân sách hỗ trợ trực tiếp và vốn ngân sách lồng ghép các chương trình mục tiêu. Diện tích thực tế trồng cà phê, số diện tích vượt kiểm soát, lượt diện tích được chứng nhận trùng lặp đạt chuẩn phát triển bền vững và diện tích thực địa được chứng nhận; sản lượng cà phê tham gia xuất khẩu quy ra giá trị USD và sản lượng xuất khẩu có USD thật; mức độ đóng góp vào ngân sách tỉnh; có số liệu cụ thể về ô nhiễm môi trường do chế biến cà phê (đối với nước mặt và nước ngầm)....
Phan Đức Ngữ
Nguồn: https://sonla.dcs.vn/tin-tuc-su-kien/noi-dung/phat-trien-ca-phe-duoi-goc-nhin-tu-van-phan-bien-5611.html
Bình luận (0)