Không “tham bát, bỏ mâm”
Trong quy hoạch, định hướng phát triển rừng kinh tế, tỉnh Bắc Giang luôn chỉ đạo sát sao từng vùng và giữ rừng tự nhiên cho mục tiêu phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái. Thế nhưng, không ít trường hợp vẫn “tham bát, bỏ mâm”, phá rừng tự nhiên để chuyển sang rừng kinh tế. Đáng chú ý, hầu hết các trường hợp khi bị phát hiện, xử lý đều thừa nhận biết là sai phạm song cố tình vi phạm.
|
Một vụ phá rừng tự nhiên quy mô lớn tại xã Lục Sơn (Lục Nam) trong năm 2024. |
Anh Bế Văn C, trú tại xã Vô Tranh (Lục Nam), người từng bị Hạt Kiểm lâm huyện xử phạt hành chính do phá gần 2 nghìn m2 rừng tự nhiên nói: “Kinh tế khó khăn nên tôi cùng một số người thân trong gia đình lén vào rừng phát dọn thực bì, phá rừng để chờ điều kiện thuận lợi đốt, dọn hiện trường trồng keo”. Tại huyện Sơn Động, với diện tích rừng tự nhiên lớn, tình trạng chặt, phá diễn biến phức tạp trong một số thời điểm. Nhiều nơi được Nhà nước giao cho các hộ quản lý, bảo vệ nay bị người dân tự ý đốt phá trồng rừng kinh tế. Các đối tượng lợi dụng thời điểm sớm, tối, ngày nghỉ để chặt phá nên việc đấu tranh, ngăn chặn gặp nhiều khó khăn.
Để bảo vệ rừng, lực lượng kiểm lâm và các địa phương đã tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về vai trò, ý nghĩa của rừng tự nhiên; duy trì tổ công tác đặc biệt phòng, chống phá rừng... Tại huyện Lục Nam, ngoài khoản tiền từ ngân sách tỉnh hỗ trợ bảo vệ rừng tự nhiên, UBND huyện còn bổ sung thêm cho người dân. Nhằm tăng tính răn đe, tất cả các vụ phá rừng tự nhiên đều bị xử lý. Đơn cử năm 2024, lực lượng chức năng đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can liên quan đến vụ phá rừng tự nhiên quy mô lớn tại xã Lục Sơn (Lục Nam). Trước đó, tại huyện Sơn Động, ngoài các vụ việc xử phạt hành chính cũng khởi tố nhiều vụ án phá rừng tự nhiên nghèo kiệt xảy ra tại xã Vĩnh An, xã Vân Sơn.
Một điều đáng lưu tâm nữa là nhiều hộ dân hưởng lợi từ chính sách giao đất, giao rừng nhưng lại âm thầm chuyển quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho các doanh nghiệp và cá nhân có tiềm lực tài chính. Lý do có thể là thiếu vốn tái đầu tư, thiếu kiến thức, kỹ thuật hoặc đơn giản thấy khoản lời trước mắt từ việc bán rừng, bán đất. Kết quả là nhiều “chủ rừng mới” dần hình thành, đa số là người nơi khác đến mua gom để đầu tư sản xuất ngắn hạn với mục tiêu khai thác tối đa lợi ích kinh tế càng làm đất thêm nghèo kiệt, bạc màu.
Trợ lực rừng gỗ lớn, thay đổi cơ cấu
Thực tiễn cho thấy, mô hình trồng rừng kinh tế chu kỳ ngắn bộc lộ nhiều bất cập theo kiểu “bóc ngắn, cắn dài”, dẫn tới hệ lụy đáng lo ngại về môi trường, năng suất và hiệu quả đầu tư. Để từng bước khắc phục tình trạng này, năm 2024, tỉnh Bắc Giang lần đầu tiên xây dựng kế hoạch phát triển rừng gỗ lớn, chuyển hóa từ rừng trồng gỗ nhỏ sang sản xuất rừng gỗ lớn. Đây cũng là năm đầu tiên tỉnh thực hiện Nghị quyết số 26 (ngày 14/7/2023) của HĐND tỉnh về chính sách hỗ trợ phát triển nông, lâm nghiệp và thủy sản giai đoạn 2023 - 2030. Theo đó, tỉnh hỗ trợ 20 triệu đồng/ha đối với cây trồng sinh trưởng nhanh và 55 triệu đồng/ha đối với cây trồng sinh trưởng chậm - một bước đi quyết liệt nhằm tạo động lực cho chuyển đổi cơ cấu rừng.
|
Rừng gỗ lớn của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Lâm nghiệp Yên Thế mang lại hiệu quả về kinh tế cũng như môi trường. |
Trong bước chuyển mình ấy, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Lâm nghiệp Yên Thế nổi lên là doanh nghiệp tiên phong. Với hơn 600 ha rừng gỗ lớn được quy hoạch ổn định, mỗi năm Công ty khai thác khoảng 50 ha với đa dạng chủng loại như keo, bạch đàn, gù hương… Không chỉ bảo đảm hiệu quả kinh tế, mô hình của Công ty còn góp phần bảo vệ môi trường và là hình mẫu được nhiều địa phương trong cả nước đến tìm hiểu, học tập.
Ông Hoàng Văn Chúc, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Công ty đánh giá: Chu kỳ trồng rừng gỗ lớn tuy kéo dài hơn nhưng hiệu quả kinh tế cao gấp đôi, thậm chí gấp ba lần rừng gỗ nhỏ. Với rừng keo gỗ nhỏ từ 6-7 năm, sản lượng chỉ có thể đạt từ 100 - 150 m3/ha nhưng nếu kéo dài chu kỳ lên 12-13 năm có thể đạt tối đa 300 m3/ha. Thực tế tại nhiều lô rừng của Công ty đã đạt mức này. Bên cạnh đó, nếu gỗ nhỏ chủ yếu phục vụ mục đích băm dăm, bóc ván và bán được 1,5-1,6 triệu đồng/m3 (thời điểm hiện tại) thì gỗ lớn có thể lên đến 3,5- 4 triệu đồng/m3 phục vụ sản xuất đồ nội thất.
Hay như nhiều hộ ở huyện Sơn Động được hỗ trợ trồng dược liệu, cây bản địa (giổi xanh, lim xanh và ba kích) dưới tán rừng cho hiệu quả cao và mang tính bền vững. Gia đình ông Hoàng Văn Ngọc, thôn Rỏn, xã Thanh Luận hiện có hơn 1 ha rừng keo lai. Ngoài trồng rừng, ông mạnh dạn cải tạo vườn tạp trồng hơn 2,2 nghìn cây ba kích tím, đến nay đã thu hoạch được một vụ, thu về 150 triệu đồng.
Ngoài mang lại hiệu quả như trên, từ năm 2024, thực hiện Nghị quyết số 26 của HĐND tỉnh, các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình trồng rừng gỗ lớn được Nhà nước hỗ trợ kinh phí, qua đó mở ra triển vọng lớn để phát triển loại rừng này. Hiện nay, mô hình đang được cơ quan chức năng tuyên truyền, nhân rộng.
Trồng rừng không chỉ cho hôm nay
Bắc Giang hiện có hơn 120 nghìn ha rừng sản xuất, nếu không được quản lý chặt chẽ, nguy cơ những cánh rừng này bị khai thác cạn kiệt, trở thành “vùng đất trống”. Để phát triển theo hướng bền vững, đi đôi với khuyến khích mô hình trồng rừng gỗ lớn, nhiều ý kiến cho rằng cần xây dựng tầm nhìn tổng thể trong quy hoạch, cơ cấu lại diện tích trồng rừng, gắn với chiến lược xuất khẩu gỗ, nâng giá trị gia tăng cho ngành lâm nghiệp. Quan trọng hơn, cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình canh tác bền vững như: Không đốt thực bì, không làm đất toàn diện, không trồng thuần một đến hai loại cây.
|
Lãnh đạo Hội Nông dân tỉnh thăm mô hình trồng ba kích dưới tán rừng tại xã Thanh Luận (Sơn Động). |
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng chiến lược phát triển lâm nghiệp theo hướng bền vững, không chỉ tập trung mở rộng diện tích rừng gỗ lớn mà còn kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc nguyên liệu đầu vào. Một trong những yêu cầu bắt buộc được áp dụng là chỉ nhập khẩu sản phẩm gỗ có chứng chỉ FSC - tiêu chuẩn toàn cầu về quản lý và phát triển rừng bền vững. Đáp ứng yêu cầu đó, Bắc Giang đang xây dựng các khu vực trồng rừng FSC.
Việc tái cơ cấu lâm nghiệp đòi hỏi phải có cơ chế, chính sách phù hợp, trong đó cần nâng cao chất lượng rừng phòng hộ, bảo đảm chức năng bảo vệ môi trường sinh thái. Cũng cần chuẩn hóa nhận thức về canh tác lâm nghiệp, từ quy định sử dụng đất dốc, quy chuẩn lựa chọn cây trồng, kỹ thuật chăm sóc đến thời điểm thu hoạch và cơ cấu luân canh phù hợp từng loại rừng. Song song với đó là cơ cấu lại rừng phòng hộ theo hướng nâng cao chất lượng. Quan điểm nhất quán là phải quản lý rừng trồng một cách toàn diện và lâu dài. Theo đại diện lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường, đất rừng cũng như một cơ thể sống, nếu bị khai thác kiệt quệ thì không thể kỳ vọng hiệu quả bền vững. Vì vậy, việc hướng dẫn người dân canh tác đúng quy trình, lựa chọn thời gian thu hoạch hợp lý và xác định rõ đối tượng cây trồng phù hợp từng vùng sinh thái là hết sức cần thiết.
Bên cạnh đó, hoạt động quản lý nhà nước cần được tăng cường, kiên quyết không để tồn tại tình trạng “chín bỏ làm mười”. Những tổ chức, cá nhân không thực hiện đúng quy trình trồng rừng theo chuẩn bền vững (như FSC) cần bị rút chứng chỉ, tránh nhập nhằng giữa sản phẩm đạt chuẩn và không chuẩn. Quan trọng hơn, mọi chính sách phát triển lâm nghiệp cần được đặt trong tổng thể cân bằng giữa lợi ích của người dân, doanh nghiệp và xã hội.
Đất rừng do các doanh nghiệp hoặc cá nhân có tiềm lực tài chính từ nơi khác quản lý ngày càng nhiều, trong khi người nghèo, những người từng được hưởng lợi từ rừng lại dần mất quyền sử dụng do phải bán đi vì nhiều lý do khác nhau. Nếu không có giải pháp căn cơ, rừng sẽ không còn là sinh kế bền vững của người dân ở vùng rừng, mà trở thành tài sản sinh lời cho một số ít người. Đây là vấn đề cần nhận diện rõ để có chính sách giữ rừng đi đôi với giữ đất, giữ người làm lâm nghiệp.
Với mục tiêu tái sinh phục hồi rừng, nâng cao giá trị đa dạng sinh học, khả năng cung cấp lâm sản và tăng khả năng phòng hộ từ rừng, Nhà nước cần từng bước thu hồi và quản lý hiệu quả diện tích rừng tự nhiên bị lấn chiếm để trồng tái sinh, trồng cây rừng đa dụng và cây bản địa tạo sinh kế bền vững; chú trọng các mô hình trồng rừng thâm canh gỗ lớn. Đối với rừng trồng phòng hộ, đặc dụng, ưu tiên trồng cây bản địa và có khả năng chống chịu gió bão, sâu bệnh như: Lim xanh, vối thuốc, thanh thất… Đặc biệt, Việt Nam phấn đấu “phát thải ròng bằng 0” đến năm 2050, vì vậy cần sớm tính toán cho giải pháp trồng rừng để trung hòa các-bon, lợi nhuận trồng rừng từ bán chứng chỉ các-bon mà không phải để lấy gỗ.
Phát triển kinh tế lâm nghiệp là hướng đi đúng song nếu thiếu kiểm soát sẽ trở thành con dao hai lưỡi. Giữa bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, việc phát triển rừng không thể chỉ chạy theo diện tích mà còn phải hướng đến bền vững.
Nhóm Phóng viên Kinh tế
Nguồn: https://baobacgiang.vn/phia-sau-nhung-canh-rung-kinh-te-bai-3-loi-di-hieu-qua-ben-vung-postid420693.bbg
Bình luận (0)