Hội thảo thu hút sự tham gia của hơn 200 chuyên gia, bác sĩ, nhân viên y tế, nhà nghiên cứu trong lĩnh vực ung thư, công nghệ sinh học, y học chính xác… ở trong nước và quốc tế.
Tại hội thảo, các báo cáo viên và đại biểu đã cùng nhau thảo luận, cập nhật những tiến bộ về kỹ thuật công nghệ và thực tế ứng dụng sinh thiết lỏng trong sàng lọc, chẩn đoán sớm ung thư; hỗ trợ lựa chọn thuốc, phác đồ điều trị trúng đích và theo dõi điều trị, tiên lượng bệnh.
Tiến sĩ - bác sĩ Nguyễn Đức Lộc, quyền Giám đốc điều hành Bệnh viện Gia An 115, phát biểu khai mạc hội thảo
Ảnh: T.Hạ
Trình bày tổng quan về sinh thiết lỏng trong ung thư, tiến sĩ Meng Earn Lim từ QIAGEN Singapore Pte. Ltd cho biết, sinh thiết lỏng là phương pháp ít xâm lấn giúp phát hiện và phân tích các dấu ấn sinh học trong cơ thể như máu, huyết thanh hoặc huyết tương, nước tiểu, nước bọt, dịch não tủy. Sinh thiết lỏng được ứng dụng đa dạng trong nghiên cứu và chẩn đoán ung thư, sàng lọc trước sinh không xâm lấn, bệnh chuyển hóa thoái hóa thần kinh, nghiên cứu về ghép tạng. Riêng trong nghiên cứu ung thư, sinh thiết lỏng dùng để bổ trợ cho sinh thiết mô và khắc phục được các hạn chế như: không có đủ mô khối u, khối u khó tiếp cận, cần theo dõi thường xuyên, cần nhiều thông tin về cơ chế phân tử của những tế bào ung thư không đồng nhất (tumor heterogeneity).
Cũng theo tiến sĩ Meng Earn Lim, các chỉ thị trong sinh thiết lỏng phổ biến nhất có thể kể đến: DNA tự do tuần hoàn trong máu, dịch tiết (cfDNA), DNA bắt nguồn từ tế bào u lưu hành tự do trong máu, dịch tiết (ctDNA), microRNAs, RNA tự do (cfRNA), các túi ngoại bào (EVs), tế bào u lưu hành tự do (CTC) và thành phần liên quan.
Tiến sĩ Meng Earn Lim - QIAGEN Singapore trình bày tổn
Tiến sĩ Nguyễn Thuận Lợi, Đơn vị Gen-Tế bào gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai, cho biết cfDNA là DNA được thải ra từ cả tế bào bình thường và tế bào khối u vào máu, chủ yếu bắt nguồn từ tế bào không phải khối u. CtDNA là DNA khối u lưu hành tự do trong máu (một tập hợp con của cfDNA) có thể được sử dụng để phân tích kiểu gen hoặc phát hiện MRD (tồn dư tối thiểu trong ung thư).
Cũng theo tiến sĩ Nguyễn Thuận Lợi, ctDNA xuất hiện trong nhiều loại ung thư khác nhau. Khoảng 70 gen liên quan bệnh ung thư tồn tại ở dạng ctDNA từ các bệnh nhân giai đoạn muộn đã được điều trị và có khoảng 50 loại ung thư có liên quan đến ctDNA.
TS. Nguyễn Thuận Lợi cũng dẫn chứng một số báo cáo cho thấy theo dõi bằng ctDNA cho phép đánh giá đáp ứng sớm của một số loại ung thư như ung thư phổi không tế bào nhỏ, ung thư đại trực tràng trong bối cảnh di căn xa. ctDNA còn có thể cho biết sự xuất hiện các cơ chế gen gây đề kháng khi đang điều trị nhắm trúng đích (ví dụ đột biến EGFR T790M thứ phát trong ung thư phổi không tế bào nhỏ gây kháng EGFR TKIs thế hệ một).
Các báo cáo tại hội thảo đã cung cấp góc nhìn đa chiều về kỹ thuật công nghệ và thực tế ứng dụng sinh thiết lỏng trên lâm sàng. Một số bài báo cáo tiêu biểu khác có thể kể đến: “Sàng lọc ung thư vú dựa trên methyl hóa: DNA bộ gen từ mô gốc và DNA tự do tuần hoàn” của tiến sĩ Lưu Phúc Lợi - Trưởng phòng Nghiên cứu khoa học, Viện Nghiên cứu Ứng dụng Khoa học sức khỏe và Lão hóa, Bệnh viện Thống Nhất; “Ứng dụng giải trình tự gen thế hệ mới trong xác định gen đích từ mẫu sinh thiết lỏng” của thạc sĩ Phạm Thị Tường Oanh - Công ty cổ phần vật tư khoa học Biomedic; “Giải pháp sinh thiết lỏng cho ung thư mô đặc từ Genemind” của tiến sĩ Qin Lu - Công ty Genemind Biosciences.
Kết thúc hội thảo, các đại biểu tham dự không chỉ được cập nhật những kiến thức chuyên môn sâu, mà còn nhận được Giấy chứng nhận cập nhật kiến thức y khoa liên tục (CME) do Viện Nghiên cứu và đào tạo y dược Gia An 115 cấp.
Nguồn: https://thanhnien.vn/sinh-thiet-long-huong-tiep-can-moi-trong-chan-doan-va-dieu-tri-ung-thu-185250412160445677.htm
Bình luận (0)