
Vùng động lực mới trên nền tảng cũ
Năm 2004, Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung được xác lập tại Quyết định số 148 ngày 13/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ gồm 5 tỉnh, thành phố: Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Theo Nghị quyết số 306/NQ-CP của Chính phủ về điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 sẽ hình thành, phát triển Vùng động lực miền Trung bao gồm khu vực ven biển thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Gia Lai.
Về cơ bản Vùng động lực miền Trung được hình thành trên nền tảng Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trước đây, trong đó, tỉnh Bình Định (cũ) hiện nay là tỉnh Gia Lai. Khác biệt đáng chú ý khi Vùng động lực miền Trung được xác định là khu vực ven biển 4 tỉnh, thành phố trong vùng. Điều này dễ hiểu bởi dải ven biển khu vực này là nơi tập trung hạ tầng chiến lược cũng như các động lực phát triển của vùng như công nghiệp, du lịch - dịch vụ, logistics…
Theo quy hoạch, trong giai đoạn sau năm 2030, sẽ nghiên cứu mở rộng phạm vi Vùng động lực miền Trung. Có thể thấy, định hướng mở rộng vùng động lực trong tương lai đặt nhiều kỳ vọng vào vùng tây, nơi sau sắp xếp, vùng này có thêm các tỉnh Kon Tum và Gia Lai (cũ). Khu vực phía tây của Vùng động lực miền Trung hiện sở hữu lợi thế vượt trội về đất đai, năng lượng, rừng gỗ lớn cùng vùng nguyên, dược liệu có giá trị kinh tế cao nhưng kết nối với vùng Đông còn khá rời rạc.

Theo Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, liên kết đông - tây trong vùng hiện nay chủ yếu đơn tuyến, theo chiều “tây cung - đông tiêu”, khiến khu vực miền núi chưa đóng góp thực chất vào tăng trưởng chung của vùng và chưa tham sâu vào chuỗi giá trị cung ứng - dịch vụ.
Để tạo sức bật cho việc mở rộng không gian Vùng động lực miền Trung trong tương lai, rất cần kết nối toàn diện được hai vùng đông - tây thông qua Hành lang quốc tế Đông - Tây (EWEC) và các hành lang nội vùng.
Tại Diễn đàn logistics vùng lần thứ 6 vừa diễn ra tại thành phố Huế, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) gợi mở, cần phương án xây dựng “Liên minh logistics miền Trung” nhằm tạo ra cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các tỉnh, thành phố trong khu vực. Cụ thể, cần thành lập ban điều hành chung với sự tham gia của lãnh đạo các tỉnh, xây dựng quy hoạch logistics liên vùng thống nhất, phát triển hệ thống thông tin logistics chia sẻ và triển khai chương trình đào tạo nhân lực logistics chung. Song song với đó, tạo “hành lang xanh” cho xuất khẩu nông sản để xây dựng chuỗi cung ứng hoàn chỉnh từ vùng sản xuất đến cảng xuất khẩu...
Nỗ lực gia tăng đóng góp
Trong hơn 20 năm qua, Vùng động lực miền Trung đạt nhiều kết quả tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên tỷ lệ đóng góp của vùng vào kinh tế Việt Nam còn khiêm tốn. Ở hầu hết chỉ số, Vùng động lực miền Trung đều xếp thứ 3, thấp hơn nhiều so với Vùng động lực phía Bắc và Vùng động lực phía Nam nên chỉ mới đóng vai trò là cực tăng trưởng thứ cấp. Để góp phần vào mục tiêu tăng trưởng đột phá của Việt Nam trong giai đoạn mới cũng như gia tăng tỷ trọng đóng góp của vùng, Đại hội Đảng bộ các tỉnh, thành phố trong Vùng động lực miền Trung vừa diễn ra đều xác định mục tiêu tăng trưởng 2 con số.

Theo Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế hơn 10% trong giai đoạn 2026 - 2030, các địa phương trong vùng cần chính sách phát triển các lĩnh vực trọng điểm như: công nghiệp chế biến chế tạo, du lịch, logistics, tài chính và thương mại, thông tin và truyền thông, năng lượng tái tạo…
Cạnh đó, cần hình thành hệ sinh thái tài chính toàn diện và “vườn ươm” cho kinh tế tư nhân, trong đó phân bổ lại nguồn lực về vốn và đất đai. Song song, có chính sách khuyến khích một số tập đoàn tư nhân quy mô lớn, đủ tiềm lực dẫn dắt chuỗi giá trị và vươn đầu tư ra nước ngoài.
Theo nhận định của các chuyên gia, mô hình tăng trưởng truyền thống dựa vào công nghiệp nặng, đầu tư lớn và khai thác tài nguyên đang dần bộc lộ những giới hạn. Dữ liệu cho thấy khu vực công nghiệp - xây dựng từng là động lực chủ lực của vùng đang suy giảm nhanh chóng về tỷ trọng từ mức đỉnh hơn 50% vào năm 2022 xuống còn khoảng 30% năm 2024.
Điều này phản ánh rõ sự cạn kiệt dư địa tăng trưởng nếu tiếp tục phụ thuộc vào các ngành công nghiệp nặng như lọc hóa dầu, luyện kim, cơ khí - vốn có tính chu kỳ cao và dễ bị tác động từ biến động toàn cầu. Do đó, cần từng bước chuyển dịch sang mô hình công nghiệp công nghệ cao, tiết kiệm năng lượng và phát thải thấp… để thích ứng và góp phần tạo sức bật tăng trưởng của vùng.
Nguồn: https://baodanang.vn/tu-nen-tang-vung-kinh-te-trong-diem-mien-trung-3306627.html
Bình luận (0)