Từ trái qua phải, Thủ hiến bang Hessen Volker Bouffier, Tổng lãnh sự Việt Nam tại Frankfurt (Đức) Nguyễn Hữu Tráng và Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm trong ngày khai trương chính thức Villa Hanoi - trụ sở của Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Frankfurt, ngày 13/9/2010. (Ảnh: TGCC) |
Trong nửa thế kỷ nhiều biến động qua, tôi tự hào và may mắn có 49 năm gắn bó với tiếng Đức và nước Đức trên nhiều vị trí khác nhau, từ những ngày là sinh viên Luật ở cả hai miền nước Đức trước thống nhất, đến những cuộc đàm phán ngoại giao và ba nhiệm kỳ công tác tại cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam tại Berlin, Frankfurt am Main.
Vạn sự khởi đầu nan (Aller Anfang ist schwer)
Năm 1975 cuộc kháng chiến của dân tộc ta đã thắng lợi vẻ vang với Đại thắng mùa Xuân, thống nhất đất nước. Tuy hòa bình lập lại nhưng đất nước còn ngổn ngang tàn tích chiến tranh. Bạn bè từng hết lòng ủng hộ nhân dân ta kháng chiến, những nước Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) anh em ở Đông Âu và bạn bè Á, Phi, Mỹ Latinh mới giành được độc lập, cũng còn muôn vàn khó khăn từ hệ quả của Chiến tranh Lạnh và bao vây cấm vận.
Vào thời điểm đó, nước Đức vẫn còn chia cắt. Cộng hòa dân chủ (CHDC) Đức ở phía Đông đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ rất sớm, vào ngày 16/12/1954. Khi còn rất nhỏ tôi đã biết về đất nước xa xôi ấy từ những trang họa báo in màu do Đại sứ quán bạn tại Hà Nội ấn hành mà tôi may mắn có được. Tôi yêu nước Đức từ ngày đó.
Còn Cộng hòa Liên bang (CHLB) Đức ở phía Tây mãi đến sau này mới thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (ngày 23/9/1975), nhưng cử Đại sứ tại Bắc Kinh kiêm nhiệm. Sau đó gần một năm, tháng 8/1976 Đại sứ thường trú đầu tiên Peter Scholz (giai đoạn 1976-1978) và số ít cán bộ ngoại giao mới sang Hà Nội, nhưng còn chưa có trụ sở. Ông và phái đoàn ngoại giao của mình phải ở tạm và làm việc tại khách sạn Thống nhất trên phố Ngô Quyền (nay là Sofitel Metropole) trong những căn phòng mà sau này ông nhớ lại là tối tăm và ẩm mốc do bị cắt điện thường xuyên, thậm chí có cả… chuột.
Đại sứ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đầu tiên (sau này là Phó Thủ tướng, Bộ trưởng ngoại giao) Nguyễn Mạnh Cầm và các cộng sự khi sang thành phố Bonn cũng từng phải ở tạm trong ngôi nhà nhỏ chung với nhiều gia đình ở khu Bad Godesberg.
Đây là giai đoạn hai bên còn e ngại và thăm dò lẫn nhau, nhất là khi lệnh cấm vận của Mỹ áp đặt lên Việt Nam từ sau năm 1975 và khi hai bên có quan điểm khác nhau trong vấn đề Việt Nam giúp nhân dân Campuchia thoát nạn diệt chủng (1978-1979).
Dù quan hệ chính thức có những khúc quanh như thế, nhưng người dân Việt Nam vẫn ghi nhớ tình nghĩa của những người dân Tây Đức trong các phong trào phản đối chiến tranh, ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam như "Hilfsaktion für Vietnam", "Medikamente für Vietnam"... Cho đến tận ngày nay, nhiều người trong những tổ chức này vẫn đêm ngày có những hoạt động kết nối hữu nghị giữa nhân dân hai nước điển hình như Tổ chức FG (Freundschaftsgesellschaft) do Giáo sư, Tiến sĩ Giesenfeld đứng đầu là đối tác tích cực của Hội hữu nghị Việt Nam-Đức (VDFG).
Sau năm 1986 với chính sách Đổi mới của Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam, quan hệ song phương bắt đầu khởi sắc, ban đầu là những chuyến sang thăm dò của một số doanh nghiệp lớn của Đức như Siemens. Một số tổ chức phi chính phủ Đức cũng nối lại những hoạt động hỗ trợ, nhân đạo và cấp một số học bổng cho học sinh Việt Nam sang Tây Đức.
Năm 1988 tôi cũng là một trong số những người Việt Nam sang phía Tây Đức nghiên cứu và học tập chuyên ngành xã hội (Luật) theo học bổng của Tổ chức hỗ trợ đại học (DAAD), do trước đó DAAD chỉ cấp học bổng chuyên ngành kỹ thuật.
Vào thời điểm này ở châu Âu diễn ra những thay đổi căn bản với sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, trong đó có CHDC Đức. Ngày 3/10/1990 nước Đức thống nhất. Đại sứ quán CHDC Đức tại Hà Nội hợp nhất với Đại sứ quán CHLB Đức và Đại sứ quán Việt Nam tại Berlin chấm dứt hoạt động, chuyển thành Văn phòng Berlin (1990-2000).
Trong quá trình thống nhất nước Đức, người Việt Nam đang sinh sống, học tập và làm việc tại Đức cũng bị ảnh hưởng. Hàng chục nghìn công nhân hợp tác lao động khi đó sang Đức theo Hiệp định giữa Chính phủ ta và Chính phủ CHDC Đức. Trong quá trình tái cơ cấu lại nền kinh tế phía Đông, hầu hết các nhà máy, xí nghiệp cũ của Đông Đức bị giải thể và người lao động rơi vào tình cảnh thất nghiệp hàng loạt.
Người lao động Việt Nam cũng bị kéo vào vòng xoáy đó. Họ không chỉ mất việc làm mà còn đối diện nguy cơ mất quyền cư trú hợp pháp ở nước Đức thống nhất. Chính phủ mới của Đức đưa ra một số biện pháp khuyến khích người lao động nước ngoài về nước (như trợ cấp tái hòa nhập 3.000 DM). Nhiều người Việt đã nhận khoản này và về nước, nhưng đa số vẫn chọn ở lại, phải tự bươn chải.
Có thể nói, một thập kỷ từ năm 1990, quan hệ hai nước trải qua những khó khăn tưởng chừng khó vượt qua, nhất là trong bối cảnh nước Đức mới thống nhất đang định hình lại vị trí của mình trong một châu Âu hậu Chiến tranh Lạnh và Việt Nam bắt đầu quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng bằng việc bình thường hóa quan hệ với tất cả các nước lớn, gia nhập APEC, ASEAN...
Ngôi nhà Đức tại TP. Hồ Chí Minh. (Nguồn: Zing) |
Vượt qua khác biệt tạo dựng lòng tin
Càng những lúc khó khăn, chúng ta càng kiên trì nguyên tắc "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" để hóa giải, biến thách thức thành cơ hội, "biến đại sự thành tiểu sự, biến tiểu sự thành vô sự" như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với ngoại giao Việt Nam. Do thời gian này được giao trực tiếp tham gia xử lý nhiều "ca khó" của quan hệ Việt-Đức nên tôi tự rút ra cho mình một vài bài học quý giá.
Một là, kiên trì đối thoại trong mọi hoàn cảnh.
Cuối năm 1994, lần đầu tiên Thủ tướng Helmut Kohl sang thăm chính thức Việt Nam với tư cách là Thủ tướng nước Đức thống nhất. Vấn đề cư trú bất hợp pháp và hoạt động của các băng nhóm tội phạm có tổ chức của người Việt lần đầu được đề cập ở cấp cao nhất, bên cạnh những vấn đề quan trọng khác của quan hệ song phương. Trước khi sang, đoàn Đức bắn tin đây là "ách tắc" lớn nhất để khai thông quan hệ.
Khi cùng Đại sứ Đức Christian Kraemer ra tiễn đoàn tại sân bay Nội Bài, Đại sứ rỉ tai tôi nói nhỏ: "Thủ tướng Kohl rất hài lòng với các cuộc tiếp xúc ở Hà Nội và ông còn hẹn sẽ quay trở lại".
Đầu năm 1995, Thủ tướng Kohl lại cử đoàn do Bộ trưởng quốc vụ Văn phòng Thủ tướng Schmidbauer và Bộ trưởng quốc vụ Bộ Ngoại giao Hoyer sang Hà Nội để cụ thể hóa các thỏa thuận trước đó giữa hai Thủ tướng. Hai Bộ trưởng quốc vụ đã ký với Bộ trưởng Văn phòng Chính phủ Lê Xuân Chinh "Tuyên bố Hà Nội" ngày 6/1/1995, theo đó Việt Nam sẽ nhận trở lại 40.000 người Việt Nam không có quy chế cư trú hợp lệ tại Đức thông qua đàm phán trực tiếp giữa hai nước.
Nhưng trong khi đoàn đàm phán hai nước đang trao đổi, cơ quan ngoại kiều địa phương ở một số nơi vẫn liên tục trục xuất mà không trao đổi trước hay chờ phía Việt Nam xác minh và cấp giấy thông hành, khiến hàng trăm người Việt Nam bị tắc lại ở Hong Kong (Trung Quốc) hay Bangkok (Thái Lan). Điều này khiến đàm phán nhiều lúc rơi vào bế tắc và có nguy cơ không thực hiện được thỏa thuận cấp cao.
Sau vòng một ở Hà Nội, hai bên vẫn hẹn gặp nhau lần tiếp ở Bonn (khi đó Chính phủ Đức chưa chuyển về Berlin) và quyết định nâng cấp Trưởng đoàn lên Thứ trưởng Ngoại giao và Quốc vụ khanh Bộ Nội vụ Liên bang. Giữa những vòng đàm phán, hai bên vẫn duy trì đối thoại thông qua Đại sứ quán hai nước.
Đối với dự án "Ngôi nhà Đức" mà sau này đã trở thành "dự án hải đăng" trong quan hệ Đối tác chiến lược cũng xảy ra tình trạng tương tự.
Trong chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Angela Merkel từ ngày 3-4/3/2011, hai bên đã ký "Tuyên bố chung" nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược hướng tới tương lai và Hiệp định chính phủ về việc phía Đức thuê khu đất ở quận I (cũ) TP. Hồ Chí Minh vốn trước đây đã mua của chính quyền Sài Gòn để xây dựng "Ngôi nhà Đức" (gọi là Hiệp định I). Việc thiết kế, xây dựng và vận hành Ngôi nhà Đức sẽ được hai bên đàm phán và ký kết Hiệp định riêng rẽ (gọi là Hiệp định II).
Thực tế, để đạt được một thỏa thuận như Hiệp định I đã đòi hỏi hai bên phải có quyết tâm chính trị rất cao và về phía Việt Nam quyết định phải ở cấp cao nhất. Sau những nỗ lực cao nhất cuối cùng các nhà đàm phán hai nước đã tìm được giải pháp êm đẹp được hai bên đồng thuận.
Đến đàm phán Hiệp định II những tưởng đơn giản, nhưng càng đi vào các vấn đề kỹ thuật cụ thể quan điểm của hai bên lại bộc lộ những khác biệt lớn. Khó nhất là dung hòa giữa các quyền ưu đãi, miễn trừ mà nhà nước Đức được hưởng với tư cách là người đứng quyền thuê đất và chủ sở hữu của Ngôi nhà Đức với những quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến việc hoạt động kinh doanh của tòa nhà này, cũng như với pháp luật quốc tế về quyền ưu đãi, miễn trừ của phần tòa nhà sử dụng làm trụ sở Tổng lãnh sự quán Đức tại TP. Hồ Chí Minh.
Hai là, cố gắng lắng nghe và thấu hiểu.
Trong mọi cuộc đàm phán, mỗi bên đều theo đuổi và bảo vệ những kỳ vọng và mong muốn của phía mình ở mức cao nhất. Vấn đề là nhiều khi quan điểm hai bên cách nhau quá xa, nếu không tìm cách để có tiếng nói chung thì không bao giờ mang lại kết quả như mong muốn, nhất là khi bên nào cũng chỉ khăng khăng bảo vệ lợi ích của mình mà không lưu ý đến lợi ích của phía bên kia.
Như về vấn đề nhận trở lại những người không được phía Đức cho cư trú.
Sau thống nhất năm 1990, nước Đức đứng trước vô vàn khó khăn, trong đó có vấn đề cư trú của hàng chục vạn người nước ngoài sang CHDC Đức lao động và cả những người vào Đức trong những năm biến động chính trị. Đơn xin tị nạn của đa số đều bị bác bỏ và rơi vào tình trạng pháp lý bấp bênh. Thêm vào đó là hoạt động của các tổ chức tội phạm có tổ chức nước ngoài gây mất ổn định xã hội. Ta cũng thông cảm cho hoàn cảnh của bạn và đặt mình vào vị trí của họ để cố tìm tiếng nói chung. Làm như vậy cũng là giúp cho cộng đồng Việt Nam ở Đức ổn định cư trú và làm ăn.
Về Dự án Ngôi nhà Đức tại TP.Hồ Chí Minh, cả hai đều mong muốn xây dựng ngôi nhà này như một biểu tượng mới, một "dự án hải đăng" trong quan hệ Đối tác chiến lược mới được thiết lập. Chính phủ Đức giao việc xây dựng và vận hành của tòa nhà cho nhà đầu tư tư nhân, dù danh nghĩa chính phủ Đức vẫn là chủ sở hữu, mà đối với nhà đầu tư tư nhân thì điều họ quan tâm nhất là tính hiệu quả kinh tế của việc sử dụng tòa văn phòng 30 tầng này như thế nào để sớm hoàn vốn và hoạt động có lãi.
Ngày 21/7/1995, Hiệp định về việc nhận trở lại những công dân Việt Nam không được Đức cho cư trú được ký tại Berlin giữa Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên (sau này là Bộ trưởng Ngoại giao) và Bộ trưởng Nội vụ Đức Manfred Kanther.
Sau này, phía Đức luôn đánh giá đây là Hiệp định tốt nhất mà phía Đức đã đạt được với nước ngoài, góp phần giải quyết ổn thỏa vấn đề phức tạp và mở ra quan hệ hợp tác tin cậy giữa hai nước, cả trong lĩnh vực tưởng như cực kỳ phức tạp là hợp tác phòng chống tội phạm.
Trong chuyến thăm Đức của đoàn cấp cao Quốc hội nước ta (12-14/3/2013), ngày 13/3 Đại sứ Việt Nam tại Đức và Bộ trưởng quốc vụ Bộ Ngoại giao Đức đã ký Hiệp định về thiết kế, xây dựng và vận hành Ngôi nhà Đức (Hiệp định II) với sự chứng ký của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng và Bộ trưởng Ngoại giao Westerwelle.
Sau này, chúng tôi, những nhà đàm phán Việt Nam và những nhà đàm phán Đức, đã thực sự trở thành những người bạn tin cậy của nhau. Cá nhân tôi luôn nhớ đến thời gian cùng ngồi bên bàn đàm phán hay trao đổi tin cậy riêng với ông TS Lenguth, Tổng vụ trưởng Bộ Nội Đức, ông TS Böse, Quốc vụ khanh Bộ Nội vụ bang Berlin, sau này là Bộ trưởng Nội vụ bang Schwesig-Holstein và bà Rogall-Grothe, Tổng vụ trưởng, sau này là Quốc vụ khanh Bộ Nội vụ Liên bang hay ông TS Freiherr von Werthen, Tổng vụ trưởng Bộ Ngoại giao và sau này là Đại sứ Đức tại Nhật Bản.
Tạo dựng trụ cột mới cho hợp tác tương lai
Quan hệ hữu nghị Việt-Đức đã bước qua nửa thế kỷ sôi động và bắt đầu chuyển sang giai đoạn phát triển mới.
Có câu "Ngũ thập tri thiên mệnh", tức là tuổi 50 hiểu mệnh trời. Suy rộng ra, trong quan hệ quốc tế các đối tác cần hiểu và nắm được xu thế của thời cuộc để kịp thời có bước đi phù hợp, đưa quan hệ phát triển rực rỡ hơn nữa.
Vậy "thiên mệnh" cho thời kỳ tới là gì trong hợp tác Việt-Đức?
50 năm qua và nhất là 15 năm quan hệ Đối tác chiến lược đã đưa hai nước trở thành những bạn bè tin cậy và đối tác kinh tế, thương mại hàng đầu của nhau trong khu vực. Tuy vậy, dư địa phát triển còn nhiều chưa được tận dụng để tạo đà phát triển mới.
Việt Nam là một trong những nước có cộng đồng nói tiếng Đức lớn nhất khu vực với hàng trăm nghìn người đang sinh sống làm ăn và hội nhập tốt ở Đức, cùng với thế hệ thứ hai, thứ ba trở thành một phần tốt đẹp của xã hội đa văn hóa Đức.
Tại Việt Nam, nhiều thế hệ người Việt từng sang Đức học tập, lao động và gắn bó với nước Đức, coi nước Đức là quê hương thứ hai của mình. Họ là cầu nối và cũng là động lực cho quan hệ song phương.
Nước Đức vốn nổi tiếng về hệ thống giáo dục và đào tạo đại học cơ bản, học nghề song hành, với những ưu đãi vượt trội (như học phí, sinh hoạt phí...). Người dân Đức vốn đánh giá cao về người Việt với những đức tính mà họ coi là dần dần biến mất ngay cả ở Đức như cần cù, chịu khó, khéo tay và hiếu học.
Thời gian qua, việc học tiếng để sang Đức học đại học, học nghề hay lao động đang trở thành xu thế, nhất là khi các điểm đến truyền thống của khu vực nói tiếng Anh đang gặp nhiều vật cản.
Nhưng điểm mấu chốt nhất là học tiếng Đức ở Việt Nam không hề đơn giản, ngay cả ở những trường đại học hoặc trung tâm ngoại ngữ lớn ở Hà Nội hay TP. Hồ Chí Minh. Trước đây hai bên đã có chủ trương đưa tiếng Đức trở thành một trong những ngoại ngữ chính dạy trong các trường phổ thông ở Việt Nam nhưng dự án không thành công do thiếu nguồn giáo viên.
Hợp tác về giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam và Đức vốn có truyền thống lâu đời, nhưng vì sao vẫn chưa thể bứt phá? Trường Đại học Việt-Đức (VGU), một trong những "dự án hải đăng" của quan hệ Đối tác chiến lược, vì sao vẫn chưa thể trở thành một cơ sở đào tạo và nghiên cứu xuất sắc trong khu vực và thế giới, với tiếng Đức là ngôn ngữ giảng dạy và học tập?
Dân ta vốn có truyền thống hiếu học. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người". Thời kỳ tới là kỷ nguyên phát triển của Việt Nam. Chúng ta coi khoa học công nghệ, giáo dục, đào tạo là chìa khóa của thành công và đã đưa việc giỏi tiếng Anh là yêu cầu bắt buộc để trở thành công dân toàn cầu trong đào tạo ở mọi cấp bậc.
Bên cạnh đó, việc dạy và phổ cập chừng mực nào đó những ngôn ngữ quan trọng khác trên thế giới chắc chắn sẽ bổ trợ cho nguồn xung lực phát triển mới. Tiếng Đức với hơn 100 triệu người trên thế giới sử dụng là tiếng mẹ đẻ (Đức, Áo và Thụy Sỹ) cần được đầu tư và quan tâm hơn nữa ở Việt Nam, làm cơ sở cho hợp tác giáo dục, đào tạo, dạy nghề và lao động chất lượng cao. Nước Đức có thể đóng góp nhiều hơn nữa trong vấn đề này.
"Tuổi trung niên" sung sức của mối quan hệ này chắc chắn sẽ đem lại những quả ngọt mới nếu chúng ta "biết thời, biết thế, biết mình, biết người".
Đó cũng là hiểu mệnh trời vậy!
Đại sứ Nguyễn Hữu Tráng là Phó Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam-Đức, nguyên Cục trưởng Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao; nguyên Trưởng đoàn chuyên viên đàm phán Hiệp định nhận trở lại và Nghị định thư hợp tác phòng chống tội phạm (1995), nguyên Trưởng đoàn chuyên viên đàm phán về Hiệp định II Ngôi nhà Đức. |
Nguồn: https://baoquocte.vn/tuoi-trung-nien-sung-suc-cua-quan-he-viet-duc-328449.html
Bình luận (0)