
GS.TS Lê Hồng Lý nói văn hóa dân gian chính là văn hóa mẹ, rất cần được lưu giữ, nuôi dưỡng - Ảnh: T.ĐIỂU
Hội thảo khoa học quốc gia "Văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (1975-2025)" diễn ra ngày 18-10 tại Hà Nội. Hội thảo và trình diễn văn hóa dân gian được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tổ chức trong hai ngày 18 và 19-10 với sự tham gia của đông đảo nhà nghiên cứu, nghệ nhân trong cả nước.
Văn hóa dân gian là văn hóa gốc, văn hóa mẹ
Tại hội thảo, GS.TS Lê Hồng Lý - Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam - cùng nhiều đại biểu đã khẳng định vai trò to lớn của văn hóa dân gian. Ông khẳng định văn hóa dân gian là "văn hóa gốc", "văn hóa mẹ", tức văn hóa khởi nguồn, sản sinh và nuôi dưỡng các hình thức phát triển cao sau này, như văn hóa chuyên nghiệp…
Văn nghệ sĩ nếu biết khai thác "văn hóa mẹ" này vào sáng tạo chuyên nghiệp của mình thì có thể nhận được hiệu quả rất lớn.
Ông ví dụ, trong lĩnh vực âm nhạc, gần đây có Hòa Minzy và Đức Phúc đưa văn hóa dân gian vào các tác phẩm âm nhạc hiện đại, vừa quảng bá được văn hóa Việt Nam, nhưng đồng thời giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc và đã thu được thành công lớn…

Trình diễn quan họ trong khuôn khổ hội thảo - Ảnh: T.ĐIỂU
GS Lê Hồng Lý cũng khẳng định văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau năm 1975 phát triển mạnh mẽ, cả trong công tác sưu tầm, phổ biến và truyền dạy. Rất nhiều di sản văn hóa dân gian được sưu tầm, khôi phục, ghi chép lại và được thực hành trong đời sống.
Có những di sản ngày xưa từng bị coi là mê tín dị đoan, nhưng đến nay lại trở thành những di sản văn hóa thế giới như "Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ của người Việt", hoặc việc sưu tầm được một pho tàng sử thi Tây Nguyên vô cùng lớn sau chiến tranh, được cả thế giới khâm phục; hay việc sưu tầm, phục dựng những di sản văn hóa dân gian trên khắp mọi miền đất nước…
Theo GS.TS Lê Hồng Lý, sự phát triển của công nghệ là một thách thức lớn đối với văn hóa dân gian, bởi không gian và môi trường sống của văn hóa dân gian là ở các làng quê thì ngày càng bị thu hẹp.
Những phong tục, tập quán hay những di sản văn hóa dân gian của dân tộc, từ nghi thức tín ngưỡng, lễ hội, đến dân ca, dân vũ… đứng trước nguy cơ mai một, đặt ra trách nhiệm lớn lao cho những người làm công tác sưu tầm, nghiên cứu và bảo tồn di sản văn hóa, văn nghệ dân gian, cũng như trách nhiệm của những nhà quản lý trong quá trình hoạch định, xây dựng chính sách.
Nhân dân không bao giờ né tránh
Bài tham luận của ông Trần Đức Ngôn - nguyên Hiệu trưởng Trường đại học Văn hóa Hà Nội, về chủ đề văn học dân gian Việt Nam hiện đại nhận được sự chú ý đặc biệt tại hội thảo vì tính thực tế và gần gũi. Mỗi lần ông đọc những câu thơ dân gian trào phúng, cả hội trường lại bật cười.
Ông Ngôn bàn tới các đặc điểm, tính chất của văn học dân gian hiện đại (từ 1945 đến nay).

PGS.TS Trần Đức Ngôn có những phân tích thú vị về văn học dân gian Việt Nam hiện đại - Ảnh: T.ĐIỂU
Theo ông Ngôn, từ những năm 1970 đã có những bài thơ trào phúng được lan truyền, tạo dư luận chống tham nhũng trong quần chúng nhân dân nhưng giờ không nhiều.
PGS Trần Đức Ngôn khẳng định đây là hiện tượng mang tính quy luật của văn hóa dân gian nói chung và văn học dân gian nói riêng. Đó là ở đâu văn học bác học phát triển thì ở đó văn học dân gian bị đẩy lùi.
Xét trong trường hợp này phải nói rộng tới văn hóa chứ không chỉ văn học. Theo ông Ngôn, từ khi Đảng, Nhà nước kiên quyết chống tham nhũng, văn hóa bác học đã thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình với hiệu quả cao trong công cuộc chống tham nhũng.
Văn hóa bác học ở đây bao gồm đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, hệ thống truyền thông và báo chí, không gian mạng.
Trong khi đó, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước rất quyết liệt: "Như vậy, đây không phải là sự né tránh của truyện cười và thơ trào phúng dân gian hiện đại. Nhân dân không bao giờ né tránh, đây là vấn đề quy luật", ông Ngôn nói.
Nguồn: https://tuoitre.vn/van-hoa-dan-gian-la-van-hoa-goc-van-hoa-me-2025101821561053.htm
Bình luận (0)