Công lao rỡ ràng
Trong bối cảnh chiến cuộc Lê - Mạc đầu thế kỷ XVI, cự tộc công thần họ Nguyễn phò nhà Lê Trung hưng ở Thanh Hóa với nhiều quân công nổi bật. Huân lao đó khởi phát từ ông nội Thái phó Trừng Quốc công Nguyễn Hoằng Dụ, người cha là Thượng phụ Thái sư Hưng Quốc công Chưởng Nội Ngoại sự, Chiêu huân Tĩnh công Nguyễn Kim (sau được truy phong Triệu Tổ Tĩnh hoàng đế), đến hai người con trai có nhiều quân công là Lãng Quận công Nguyễn Uông rất tài giỏi, gặp nạn mất sớm và người em là Đoan Quận công Nguyễn Hoàng. Từ mâu thuẫn nội bộ của các thế lực chính trị Lê - Nguyễn - Trịnh đương thời, Đoan Quận công Nguyễn Hoàng theo kế của ông cậu dưỡng phụ là Thái phó Nguyễn Ư Dĩ xin vào Nam, trấn thủ Thuận Hóa, một vùng Ô châu ác địa, biên cương cam go, từ năm Mậu Ngọ (1558).
Trang Thái tổ Ngọc điệp trong Hoàng triều Ngọc điệp |
Từ vùng tử địa, với bao khó khăn về địa lý tự nhiên cũng như nhân quần xã hội của một vùng đất mới phương Nam đầy nghiệt ngã và xa lạ, Đoan Quận công cùng bộ tướng tùy tùng đã dần biến thành sinh lộ, làm nên nhiều công lao rỡ ràng, từng bước kiêm quản luôn trấn thủ Thuận - Quảng (Canh Ngọ, 1570), được phong là Đoan Quốc công, tôn xưng là chúa Tiên, xác lập nền tảng xứ Nam Hà - Đàng Trong phồn thịnh trong bối cảnh khu vực đương thời. Sau khi băng (ngày Canh Dần, tháng 6 năm Quý Sửu, 1613), thọ 89 tuổi, ngài được dâng thụy hiệu là Thái tổ Gia Dụ hoàng đế, đến đầu thời Gia Long, truy tôn là Triệu Cơ Thùy Thống Khâm Minh Cung Ý Cẩn Nghĩa Đạt Lý Hiển Ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia Dụ hoàng đế, miếu hiệu là Thái tổ, lăng gọi là Trường Cơ.
Về ngày sinh của chúa Tiên
Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà đến nay đã có sự sai lệch trong việc xác định ngày sinh của chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Điều này cần sớm được minh định, đặc biệt là trong năm nay, nhân kỷ niệm 500 năm ngày sinh của ngài (Ất Dậu, 1525 - Ất Tỵ, 2025).
Đại Nam thực lục tiền biên ghi nhận “聖 誕 乙 酉 年 (黎 統 元 四 年 - 明 嘉 靖 四 年) 秋 八 月 丙 寅” (Thánh đản Ất Dậu [Lê Thống Nguyên tứ niên - Minh Gia Tĩnh tứ niên] thu bát nguyệt Bính Dần” [Ngài sinh năm Ất Dậu (năm Thống Nguyên thứ tư triều Lê - năm Gia Tĩnh thứ tư triều Minh) tháng 8 mùa thu Bính Dần] (quyển nhất, trang 1). Đáng chú ý là sau chữ “Bính Dần 丙寅” không có chữ “nhật 日” (ngày) hay “thời 時” (giờ), nhưng bản dịch của Viện Sử học lại ghi rõ là “Sinh ngày Bính dần, tháng 8, mùa thu, năm Ất dậu [1525]…” (Nxb. Giáo dục, 2002, tr. 25).
Đối chiếu lịch pháp thì theo lịch vạn niên, tháng 8 năm Ất Dậu (1525) hoàn toàn không có ngày Bính Dần mà ngày đó duy nhất trong mùa thu năm ấy (60 ngày mới có 1 lần) lại là ngày mùng 10 tháng 9 âm lịch (26/9/1525). Do vậy có thể thấy ở đây, cách hiểu “ngày Bính Dần” như bản dịch của Viện Sử học là không ổn.
Triều Nguyễn đặc biệt chú trọng việc làm phả hệ hoàng gia, thời Gia Long gọi là Thiên Nam thế hệ, thời Minh Mệnh gọi Hoàng triều ngọc phả và đến năm Giáp Thân (1824) mới gọi là Hoàng Triều Ngọc điệp. Tháng 11/Tân Sửu (1841), Ngọc điệp làm xong, vẫn có sai sót nên từ Tổng tài Trương Đăng Quế trở xuống phải chịu tội; mãi đến tháng 8/Đinh Mùi (1847), Ngọc điệp mới làm xong. Ở đây, trang Thái Tổ Ngọc Điệp cho biết chi tiết: “聖 誕 乙 酉 年 (黎 統 元 四 年) 秋 八 月 (乙 酉) 十 二 日 (丙 寅 時 缺) 生. 甫 二 歲…” (Thánh đản Ất Dậu Lê Thống Nguyên tứ niên thu bát nguyệt Ất Dậu, thập nhị nhật Bính Dần thời khuyết sanh” [(Thái Tổ) sinh năm Ất Dậu, năm Thống Nguyên thứ tư nhà Lê, mùa thu tháng 8 (Ất Dậu), ngày 12, gần giờ Bính Dần].
Do vậy, “Bính Dần thời khuyết” nghĩa là chưa trọn giờ, tức gần tới giờ Bính Dần (3 - 5 giờ sáng), nên cần hiểu là “gần tới giờ Bính Dần”, hoàn toàn không phải là “ngày Bính Dần”. Đối chiếu lịch pháp thì ngày 12 tháng 8 năm Ất Dậu là ngày Kỷ Hợi, nhằm ngày 30/8/1525.
Một sự minh định
Từ đây, căn cứ tài liệu chính thống Hoàng triều Ngọc điệp thời Thiệu Trị được ghi chép nghiêm cẩn, đầy đủ chi tiết, có thể đi đến khẳng định ngày sinh (Thánh đản) của Đức Thái Tổ Gia Dụ Hoàng đế húy Nguyễn Hoàng là ngày 12 tháng 8 năm Ất Dậu (30/8/1525), gần giờ Bính Dần (3 - 5 giờ sáng). Những sự sai lệch, thiếu thống nhất do ghi chép hay phiên dịch đều khó có sức thuyết phục, cần được kịp thời minh định một cách cụ thể, chính xác.
Vì vậy, thiết nghĩ Hội đồng Nguyễn Phúc tộc Việt Nam cần khảo cứu công phu lại một lần nữa các nguồn tài liệu có được để chính thức ghi nhận ngày Thánh đản của chúa Tiên Nguyễn Hoàng, làm cơ sở cho việc tham khảo, soạn thảo các tài liệu liên quan về sau. Điều đó đảm bảo khẳng định sự nghiêm túc, chính xác của khoa học lịch sử của quốc gia dân tộc, sự tôn nghiêm trong đời sống tín ngưỡng thiêng liêng của gia tộc, của văn hóa Huế, cho tiền nhân được yên ủi và hậu thế càng được an tâm, tự hào.
Nguồn: https://huengaynay.vn/van-hoa-nghe-thuat/ve-ngay-sinh-cua-chua-tien-nguyen-hoang-158339.html
Bình luận (0)