Ông Nguyễn Đình Tùng - Tổng giám đốc Vina T&T - từng làm việc trong ngành công an, sau đó rẽ hướng sang ngành vận chuyển. Nhân duyên đưa lối cho ông tới công việc xuất khẩu trái cây. Gần 2 thập kỷ qua, Vina T&T đã xuất khẩu hàng chục loại trái cây qua những thị trường khó tính, đặc biệt có Mỹ. Ông được mến mộ gọi bằng danh xưng “vua xuất khẩu trái cây”.
Nói về trái cây, ông Tùng bày tỏ niềm tự hào về tầm vóc trái cây Việt trên thế giới. Ông cũng luôn đau đáu với câu hỏi tại sao New Zealand nổi tiếng với trái táo, Hàn Quốc có nho mẫu đơn, còn Việt Nam - nơi có rất nhiều loại trái cây ngon - lại chưa xây dựng được thương hiệu mạnh? Ông quyết đi tìm câu trả lời và mơ ước khẳng định thương hiệu nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới.
Người ta gọi ông là “vua xuất khẩu trái cây” thì chắc hẳn ông và Vina T&T đã đạt được rất nhiều thành tựu. Ông đã xuất khẩu bao nhiêu loại trái cây, đi những nơi nào và thị trường nào là chủ lực?
- Chúng tôi đã xuất khẩu sang khoảng 15 quốc gia trên thế giới. Trong đó, Mỹ là thị trường chủ lực, duy trì từ lúc khởi nghiệp đến nay, chiếm khoảng 70% sản lượng xuất khẩu. Sau năm 2023, tỷ lệ này giảm xuống còn khoảng 45% do thị phần Trung Quốc tăng lên, đặc biệt sau khi họ chính thức mở cửa nhập khẩu sầu riêng và dừa xiêm từ Việt Nam.
Các loại trái cây chủ lực của Vina T&T gồm dừa, nhãn, sầu riêng, thanh long, xoài. Ngoài ra, một số loại khác như chôm chôm, vú sữa, bưởi cũng được xuất sang Mỹ và New Zealand với số lượng đáng kể.
Vì sao ông lại chọn thị trường Mỹ và bắt đầu xuất khẩu từ rất sớm?
- Lúc đó, nhiều doanh nghiệp tập trung vào Trung Quốc và các thị trường khác, cạnh tranh rất khốc liệt. Trong khi đó, thị trường Mỹ có những hàng rào kỹ thuật và yêu cầu rất cao, thậm chí được coi là khó nhất. Tôi quan niệm rằng, nếu mình làm được điều khó nhất thì sau này những thị trường dễ hơn sẽ thuận lợi hơn nhiều.
Hơn nữa, thời điểm ấy, số doanh nghiệp xuất khẩu trái cây sang Mỹ chỉ khoảng 15-20 đơn vị, nên mức độ cạnh tranh thấp hơn so với các thị trường khác. Chúng tôi chọn Mỹ để tạo nền tảng, rồi từ đó mở rộng sang Canada, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á một cách thuận lợi hơn.
Ông bắt đầu xuất khẩu sang Mỹ từ năm nào?
- Thật ra, hành trình khởi nghiệp của tôi có thể chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn đầu là năm 2008, khi Vina T&T là một trong những đơn vị đầu tiên xuất khẩu thanh long sang Mỹ. Lúc đó, thị trường Mỹ mới vừa mở cửa cho loại trái cây này, nên mọi thứ đều còn rất sơ khai. Kỹ thuật và công nghệ bảo quản của chúng tôi khi ấy còn hạn chế, nên gặp nhiều thất bại.
Đến năm 2015, tôi mới chính thức “khởi nghiệp lại” với trái thanh long. Lúc này, công nghệ bảo quản đã được cải thiện đáng kể, cho phép xuất khẩu bằng đường biển. Từ đây, tôi thành công với thanh long.
Sau đó, năm 2016, tôi bắt đầu xuất khẩu nhãn, năm 2017 là dừa và những năm tiếp theo, lần lượt bổ sung nhiều loại trái cây khác. Mỗi năm là một bước tiến mới trong hành trình mở rộng sản phẩm xuất khẩu sang Mỹ.
Những khó khăn về hàng rào kỹ thuật khi xuất khẩu vào Mỹ là gì? Ông đã áp dụng những giải pháp nào để vượt qua?
- Khó khăn lớn nhất là chúng tôi xuất khẩu trái cây tươi ở thời kỳ công nghệ bảo quản chưa đủ tốt. Ví dụ với thanh long, thời điểm đó chỉ bảo quản được khoảng hơn 20 ngày. Trong khi đó, vận chuyển từ Việt Nam sang bờ Tây nước Mỹ, cụ thể là California, mất tới hơn 20 ngày. Lúc ấy chưa có cảng Cái Mép, nên thời gian vận chuyển càng kéo dài, khoảng 24-25 ngày. Khi hàng đến nơi, container được mở ra thì hầu như đã hư hỏng hết.
Đến năm 2015, tình hình mới thay đổi. Lúc này, công nghệ bảo quản nâng thời gian lên 35-40 ngày. Đồng thời, cảng Cái Mép đi vào hoạt động, giúp thời gian vận chuyển sang Mỹ rút ngắn còn khoảng 19-20 ngày.
Nhờ công nghệ bảo quản cải tiến, từ năm 2015, thanh long có thể bảo quản 45 ngày, nhãn khoảng 55 ngày, và dừa hơn 60 ngày. Điều này giúp việc xuất khẩu sang Mỹ được kiểm soát tốt hơn và thuận lợi hơn.
Tuy nhiên, để làm được điều đó, chúng tôi cần quy trình chính xác từ thu hoạch, giữ nhiệt độ ổn định, đến lúc hàng lên tàu. Khi sang nước nhập khẩu, sản phẩm vẫn đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, giữ độ tươi ngon, tạo niềm tin để người tiêu dùng tiếp tục mua.
Lúc đó, ông có nghĩ mình là người “giải cứu” trái cây Việt không?
- Thực ra, lúc đó tôi chỉ nghĩ đơn giản là mưu sinh và nắm bắt cơ hội thôi. Thấy cơ hội đến thì làm, chứ chưa bao giờ tự xem mình là người đứng ra “giải cứu”. Vina T&T cũng chỉ thực sự tham gia vào những hoạt động hỗ trợ tiêu thụ nông sản khi đã phát triển, có chỗ đứng trong ngành và thu mua được sản lượng đủ lớn.
Cá nhân tôi từng góp ý với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (cũ), rằng cụm từ “giải cứu” chỉ nên xem là giải pháp tình thế. Ban đầu, nó tạo hiệu ứng tích cực để kịp thời tiêu thụ hàng hóa, nhưng về lâu dài sẽ vô tình làm giảm giá trị sản phẩm. Khi bà con bán hàng, nếu gắn mác “giải cứu” thì gần như mất quyền thương lượng giá với thương lái.
Thậm chí, khi báo chí, truyền thông dùng quá nhiều từ này, người mua sẽ mặc định “giải cứu” nghĩa là phải rẻ. Điều đó tạo áp lực rất lớn, đặc biệt với các chuỗi bán lẻ trong nước. Ví dụ, báo đăng giá tại vườn chỉ 1.000-2.000 đồng/kg, nhưng khi ra siêu thị lại bán 15.000-20.000 đồng/kg. Họ không hiểu rằng sản phẩm đã được chọn lọc, bảo quản, vận chuyển và cộng thêm chi phí logistics, nên giá bán cao hơn là hợp lý.
Ngoài ra, việc gắn mác “giải cứu” còn tác động tiêu cực khi xuất khẩu. Đối tác nước ngoài cũng đọc được thông tin đó, và sẽ nghĩ rằng trái cây Việt Nam có giá rất rẻ. Điều này gây bất lợi khi đàm phán giá xuất khẩu. Vì thế, chỉ sau 1-2 năm, tôi đã đề xuất không nên dùng từ “giải cứu” nữa, để bảo vệ giá trị nông sản Việt.
Khi gặp khó khăn, có khi nào ông cảm thấy nản, muốn chuyển sang ngành nghề khác?
- Thời gian đầu, chúng tôi làm bằng niềm tin rất mãnh liệt. Khi gặp khó khăn, chúng tôi từng bước tháo gỡ. Trong hành trình khởi nghiệp, “cơn bão” lớn nhất là đại dịch Covid-19.
Khi đó, gần như các nước trên thế giới đều ngừng nhập khẩu. Nhưng Vina T&T thì vì mối liên kết chặt chẽ với nông dân nên không thể bỏ mặc họ. Chúng tôi học được rất nhiều bài học từ giai đoạn đó. Nhờ sự phối hợp của Tổ công tác 970 (Bộ Nông nghiệp) và Thứ trưởng Trần Thanh Nam, chúng tôi trực tiếp vào tận vùng nguyên liệu để thu mua hàng.
Vấn đề là lấy được hàng rồi nhưng gần như tê liệt xuất khẩu. Nhiều nước hạn chế nhập khẩu, buộc chúng tôi phải cấp đông trái cây. Từ đó, chúng tôi lại có thêm một dòng sản phẩm mới. Đây chính là “trong rủi có may”. Khi thông quan trở lại, chúng tôi đã có sẵn nguồn hàng và kinh nghiệm xử lý trong tình huống khẩn cấp.
Thời điểm đó, ai cũng lo lắng vì không biết dịch bao giờ kết thúc. Vina T&T vẫn duy trì toàn bộ đội ngũ, không sa thải một ai, dù lúc đó luật pháp cho phép. Tôi nghĩ, nếu sa thải người lao động khi họ khó khăn nhất thì sau này sẽ rất khó nhìn mặt nhau. Chúng tôi còn phải giữ liên kết với nông dân, hỗ trợ họ khi trái trên cây có nguy cơ rụng hàng loạt. Những chuyến xe vào vùng trồng luôn có xe của tỉnh đội dẫn đường.
Tôi nhớ mãi những đêm 0h, 1h sáng, phải gọi điện để xin cho xe vào thu hoạch; hoặc cảnh 2 xe phải dừng lại giữa đường, chuyển hàng từ xe này sang xe kia mới ra được vì chốt kiểm soát.
Có thời điểm nhiều người xung quanh nhiễm bệnh, thậm chí có người mất, khiến tinh thần mọi người xuống rất thấp. Nhưng may mắn là tình hình qua nhanh, chúng tôi ứng phó tốt. Khi có vắc xin, Vina T&T là một trong những đơn vị được ưu tiên tiêm sớm để nhân viên có thể tiếp tục thu hoạch và làm việc.
Những hành động hỗ trợ, khích lệ của bà con nông dân giúp chúng tôi có thêm động lực. Vượt qua được giai đoạn đó, chúng tôi cảm thấy không còn khó khăn nào lớn hơn. Khi ấy, vấn đề không chỉ là sự tồn tại của doanh nghiệp mà còn là ranh giới giữa sự sống và cái chết của cộng đồng.
Chính tinh thần “không bỏ ai lại phía sau” đã giúp mọi người đồng lòng, cống hiến và phát triển mạnh mẽ hơn sau dịch.
Như khi nãy ông chia sẻ thành thật, ông khởi nghiệp bán trái cây vì cuộc sống mưu sinh. Nhưng tôi tin chắc đó chỉ là điểm khởi đầu, để tiếp tục gắn bó, chắc hẳn ông có những suy nghĩ khác?
- Đúng vậy. Ban đầu, điều thôi thúc để tôi bước vào con đường này là kiếm tiền. Nhưng khi đã làm, trải qua va vấp, có cả thành công lẫn thất bại, mục tiêu và lý do gắn bó đã khác đi. Nó không chỉ còn là câu chuyện tiền bạc nữa. Tiền chỉ là động lực ban đầu, còn để mình gắn bó lâu dài, công việc đó phải mang lại ý nghĩa và giá trị trong cuộc sống.
Bây giờ, ông có mong muốn gì với trái cây Việt?
- Khi công việc đã ổn định, chúng tôi bắt đầu có nhiều thời gian tiếp xúc với bà con nông dân, cùng ăn, cùng làm với họ. Sự gắn bó với con người, với vùng đất, với những câu chuyện của họ khiến tôi thấy công việc này đáng trân trọng hơn rất nhiều.
May mắn là tôi cũng được gặp và làm việc cùng những người rất tâm huyết, như Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan (khi đó ông còn là Bí thư Đồng Tháp). Ông thường xuống tận nơi, lội ruộng, hỏi han, động viên, cùng bà con làm việc. Sau này, khi ông Hoan ra làm Bộ trưởng Nông nghiệp, ông vẫn dành những lời khích lệ, những bài viết truyền cảm hứng rất lớn cho tôi. Trong mùa dịch, tôi cũng được Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường động viên, giúp giữ vững tinh thần để tiếp tục.
Từ đó, mong muốn lớn nhất của tôi là bán được nhiều hàng, nhưng quan trọng hơn là nâng tầm trái cây Việt. Tôi muốn bạn bè quốc tế nhìn thấy trái cây Việt Nam như một sản phẩm đẹp, chất lượng và đáng tự hào.
Tôi thường tự hỏi: Tại sao New Zealand có táo nổi tiếng, Hàn Quốc có nho mẫu đơn, còn Việt Nam - nơi có rất nhiều loại trái cây ngon - lại chưa xây dựng được thương hiệu mạnh?
Tôi luôn đau đáu chuyện làm thương hiệu. Khi xuất khẩu, tôi thấy trái cây Việt bày bán ở nước ngoài rất đẹp, rất được trân trọng. Nhưng ở trong nước, nhiều siêu thị lại bày trái cây Việt sơ sài, thậm chí chất lượng trưng bày còn tệ. Trong khi đó, người nông dân đã nâng niu từng trái, bỏ công sức chăm sóc. Thỉnh thoảng, báo chí lại đăng tin về cơ sở làm ăn gian dối, dùng thuốc hóa học bừa bãi… khiến người tiêu dùng quay lưng.
Thực tế, đó chỉ là số ít. Nếu phần lớn trái cây Việt kém chất lượng thì chúng ta không thể nào xuất khẩu được sang các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Australia, Canada, Hàn Quốc… Nhưng đáng tiếc, hình ảnh về trái cây Việt trong mắt người tiêu dùng trong nước lại chưa tương xứng.
Chính vì vậy, tôi muốn yêu và bảo vệ trái cây Việt hơn nữa. Tôi mở cửa hàng để trưng bày trái cây Việt một cách đẹp nhất, không chỉ để bán, mà còn là nơi để khách hàng trải nghiệm. Mọi thứ, từ không gian đến cách bài trí, đều thể hiện sự trân trọng với sản phẩm của nông dân.
Tôi tin rằng nhờ tình yêu đó, ông bà tổ tiên đã phù hộ để tôi có đủ nguồn lực và kinh phí theo đuổi ước mơ: làm cho trái cây Việt Nam ngày càng đẹp hơn trong mắt bạn bè quốc tế và cả trong mắt chính người Việt. Tôi mong người tiêu dùng nhận ra rằng trái cây Việt không chỉ ngon mà còn tốt cho sức khỏe, an toàn và có giá hợp lý.
Dĩ nhiên, ai có điều kiện vẫn có thể thưởng thức trái cây nhập khẩu để trải nghiệm hương vị. Nhưng trong đời sống hàng ngày, trái cây Việt hoàn toàn là lựa chọn tốt hơn - vừa hợp túi tiền, vừa đảm bảo sức khỏe. Tôi muốn xóa bỏ suy nghĩ “ăn trái cây Việt là lo hóa chất” hay “trái ngon chỉ để bán, còn trái xấu mới để ăn”. Những câu chuyện kiểu đó đã tồn tại lâu, nhưng cần thay đổi để người tiêu dùng trong nước và quốc tế có cái nhìn đúng đắn hơn về trái cây Việt Nam.
Tức là ông đề xuất phát triển trái cây Việt thành sản phẩm có thương hiệu quốc gia, giống như ở một số nước, chứ không manh mún theo từng đặc sản của tỉnh thành?
- Thành công của một sản phẩm hay mặt hàng phụ thuộc rất lớn vào thương hiệu. Khi xây dựng được thương hiệu mạnh, đến mùa vụ, người tiêu dùng sẽ cảm thấy tự hào và mong muốn mua, sử dụng sản phẩm đó. Dĩ nhiên, điều này đòi hỏi sản phẩm phải đạt chất lượng đồng đều, được trồng theo quy hoạch, có sự liên kết chặt chẽ giữa nông dân – doanh nghiệp – cơ quan quản lý và phải được giám sát nghiêm ngặt để hình thành vùng nguyên liệu lớn, ổn định.
Hiện nay, các thị trường đều không còn dễ tính. Ví dụ, Trung Quốc trước đây từng là thị trường “dễ thở” nhưng giờ thậm chí khó tính hơn nhiều nước khác. Chỉ cần xảy ra sự cố là họ nâng hàng rào kỹ thuật, siết kiểm soát. Như trường hợp sầu riêng: khi phía bạn hàng siết kiểm tra về dư lượng thuốc hay quy cách đóng gói, chỉ một vài lô vi phạm là cả ngành gặp nguy hiểm. Vì vậy, chúng ta phải lường trước những tình huống đó, đồng thời mở rộng sang nhiều thị trường khác.
Khi xuất khẩu, dù trong nước hàng hóa đến từ tỉnh này, tỉnh kia, doanh nghiệp này hay doanh nghiệp khác, thì ra khỏi biên giới, tất cả đều mang thương hiệu “hàng Việt Nam”. Nếu chất lượng không tốt, người tiêu dùng nước ngoài sẽ đánh giá chung là “hàng Việt Nam kém chất lượng”, chứ không phân biệt của công ty nào. Ngược lại, nếu tốt thì cũng là thương hiệu quốc gia được nâng cao.
Vì vậy, trách nhiệm giữ uy tín thương hiệu quốc gia thuộc cả doanh nghiệp lẫn nhà nước. Khi đã xuất khẩu, sản phẩm phải ở chất lượng cao nhất, bởi đây là hàng hóa mang về ngoại tệ để xây dựng đất nước. Nếu làm mất uy tín, chúng ta sẽ mất thị trường, và khôi phục lại là rất khó.
Ngoài ra, khi cạnh tranh quốc tế, Việt Nam phải đối đầu trực tiếp với Thái Lan hay các nước châu Mỹ ở những thị trường chung. Ví dụ, ở thị trường Mỹ hay Trung Quốc, trái cây Việt và trái cây Thái Lan đều là sản phẩm nhiệt đới, nhiều loại tương đồng. Do đó, chúng ta cần cùng nhau bảo vệ thương hiệu Việt Nam để cạnh tranh, thay vì mạnh ai nấy làm.
Nông dân và doanh nghiệp phải hướng đến sản xuất một loại sản phẩm có thể bán ở thị trường khó tính nhất, thì mới dễ dàng chinh phục thị trường dễ tính và tiêu thụ nội địa. Không thể sản xuất manh mún theo kiểu "loại này bán cho ông A, loại kia bán cho ông B" với tiêu chuẩn mỗi nơi một khác - cách làm đó sẽ khiến chất lượng không đồng nhất và làm yếu thương hiệu chung.
Doanh nghiệp ông đã giải quyết được vấn đề đó chưa? Tức là trồng một loại sản phẩm nhưng có thể bán được ở tất cả thị trường?
- Chúng tôi đã liên kết với bà con nông dân từ rất nhiều năm rồi. Có những vùng trồng được quy hoạch và quản lý rất rõ ràng. Ví dụ như mùa này là mùa của trái thanh nhãn ở vùng sông Hậu (Cần Thơ), chúng tôi dán nhãn thương hiệu và khi xuất khẩu đi các nước, mỗi lần thu hoạch, hợp tác xã đều phải đưa đi kiểm nghiệm. Sau khi kiểm nghiệm đạt, tuyệt đối không được xịt thêm thuốc hay bất kỳ chất gì khác. Chỉ khi đạt tiêu chuẩn đó, chúng tôi mới xuất khẩu.
Bà con cũng đã được hướng dẫn kỹ cách thu hái và xử lý để đảm bảo đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Ngoài ra, chúng tôi còn làm việc ở vùng Sóc Trăng, trồng thanh long ở Chợ Gạo (Tiền Giang), hay làm việc với vùng Châu Thành (Đồng Tháp) và Châu Thành (Bến Tre).
Mỗi vùng đều có quy hoạch riêng và gần như tất cả bà con liên kết với công ty chúng tôi đều hiểu rõ quy trình, cùng nhau xây dựng để đảm bảo mỗi loại hàng xuất khẩu đều đạt chất lượng cao nhất.
Ông nghĩ rằng các doanh nghiệp trong nước cần cải tiến như thế nào để làm xuất khẩu tốt hơn?
- Khi xuất khẩu, điều quan trọng nhất là phải đáp ứng đúng hàng rào kỹ thuật của từng quốc gia. Nếu không đạt, chúng ta sẽ phải trả giá bằng việc bị hủy hoặc trả lại lô hàng. Ngay cả khi may mắn đưa được một lô vào thì những lô sau cũng sẽ gặp nguy hiểm nếu vi phạm.
Mỗi quốc gia, mỗi quy trình đều có hàng rào kỹ thuật và luật chơi khác nhau. Ví dụ, xuất khẩu vào Mỹ cần có mã số vùng trồng, mã số nhà đóng gói và đảm bảo không tồn dư 7 hoạt chất bị cấm. Một số loại trái cây còn phải đàm phán trước khi được nhập khẩu.
Trong khi đó, thị trường Canada cho phép tất cả loại trái cây, rau quả Việt Nam vào mà không cần đàm phán, nhưng họ lại kiểm tra rất chặt chẽ về an toàn thực phẩm. EU thì áp dụng hậu kiểm, nghĩa là hàng đã vào rồi nhưng vẫn có thể bị kiểm tra, dẫn đến nguy cơ cao bị hủy hàng hoặc đưa vào "danh sách đen".
Lời khuyên của tôi dành cho các doanh nghiệp chuẩn bị xuất khẩu trái cây là: phải hiểu rõ luật chơi của từng thị trường để đáp ứng đầy đủ hàng rào kỹ thuật, chuẩn bị giấy tờ hợp lệ và có đủ nguồn nguyên liệu đạt chuẩn. Với những doanh nghiệp đã xuất khẩu rồi, cần giữ sự ổn định, thường xuyên cập nhật luật mới và yêu cầu mới của thị trường.
Nếu như trước đây, năm 2008, chúng ta mới chỉ xuất khẩu một loại trái cây là thanh long vào thị trường Mỹ, thì sau 17 năm, đến nay đã có 8 loại trái cây vào thị trường này. Ngoài ra, nhiều loại trái cây Việt Nam đã có mặt tại Úc, New Zealand, Nhật Bản, Hàn Quốc - những thị trường rất khó tính - và đều đáp ứng được tiêu chuẩn. Điều này chứng minh trái cây Việt Nam hoàn toàn đủ tầm để xuất hiện ở những thị trường hàng đầu thế giới.
Khi đã có cơ hội vào thị trường, chúng ta phải cùng nhau xây dựng thương hiệu, mang đến những loại trái cây tốt nhất. Thực tế, hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu đều muốn đưa hàng chất lượng cao ra nước ngoài, nhưng đôi khi chưa nắm hết luật chơi hoặc chỉ chú ý đến phần “bề nổi”, chưa chú trọng kiểm soát dư lượng, chất lượng nguyên liệu một cách toàn diện. Điều này tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Ngoài ra, tôi cũng thẳng thắn chia sẻ là vẫn còn một số doanh nghiệp làm ăn thiếu uy tín, lừa khách hàng là nhà nhập khẩu, nhận tiền đặt cọc rồi giao hàng không đúng chất lượng, hoặc chỉ bán một lô rồi dừng hợp tác. Những trường hợp như vậy gây ảnh hưởng rất lớn: ban đầu lô hàng đẹp, nhưng các lô sau lại giảm chất lượng, làm mất niềm tin.
Chúng tôi không cho rằng doanh nghiệp Việt Nam cố tình xuất khẩu hàng kém chất lượng, nhưng vấn đề là năng lực sản xuất, kiểm soát nguyên liệu chưa đủ. Làm một công thì có thể rất chuẩn, nhưng khi mở rộng lên 2-3 công thì không kiểm soát được, dẫn đến rủi ro. Cuối cùng, doanh nghiệp sẽ mất tiền, mất uy tín và điều đó còn ảnh hưởng tới thương hiệu trái cây Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Khi liên kết với bà con, chúng tôi thường chụp lại hình ảnh hàng hóa của họ trên kệ siêu thị nước ngoài và gửi về. Lúc đó, ai cũng hãnh diện, vì trước đây bán cho thương lái thì không biết hàng mình đi đâu. Bây giờ, họ biết rõ sản phẩm của mình được trưng bày ở đâu, tại đất nước nào.
Tôi còn nhớ có những cô chú nông dân lớn tuổi, 60, 70, thậm chí 80 tuổi, gắn bó với công ty nhiều năm. Mỗi mùa thu hoạch, họ đều háo hức khoe: “Sắp thu hoạch rồi con, chuẩn bị xuất khẩu nhé. Chú trồng theo tiêu chuẩn của công ty đó”. Với họ, niềm vui không chỉ ở việc bán được giá tốt, mà còn là sự tự hào khi trái cây mình trồng ra được nâng niu ở những thị trường mà trước đây họ chưa từng nghĩ tới. Chính những điều đó mang lại cho tôi cảm giác hãnh diện hơn rất nhiều so với danh xưng “ông vua xuất khẩu trái cây”.
Mỗi doanh nhân thường có một “sứ mệnh” nào đó. Ông nghĩ sứ mệnh của mình là gì?
Tôi nghĩ, sứ mệnh không phải do mình tự đặt ra từ đầu. Lúc mới bắt đầu, mình chỉ làm việc để “kiếm cơm”, làm công việc hằng ngày. Rồi dần dần, trong quá trình làm, nó tự hình thành một sứ mệnh và tới một lúc nào đó, mình cảm thấy mình có trách nhiệm với sứ mệnh đó.
Ví dụ như Vina T&T, hồi xưa lập nghiệp chỉ có 2-3 nhân viên. Đến nay, công ty đã có tới hơn 200 nhân viên chính thức. Chúng tôi tuyển dụng và tạo việc làm cho cả ngàn lao động ở các hộ liên kết. Điều đó đồng nghĩa mình đang có trách nhiệm với hàng ngàn gia đình.
Muốn gánh được trách nhiệm đó, bản thân tập đoàn phải hoạt động ổn định, có đầu ra ổn định, công việc ổn định. Khi đó, những gia đình đang làm việc cho mình mới ổn định được. Ngoài ra, còn có hàng trăm bà con nông dân đã tin tưởng liên kết với chúng tôi. Khi họ trồng theo tiêu chuẩn của công ty, tới mùa thu hoạch, mình phải mua. Đó là sự gắn kết, là sức mạnh của chúng tôi.
Khi dịch bệnh xảy ra, dù có rất nhiều lý do để “buông” - vì không đi lại được, không có đầu ra, không xuất khẩu được - nhưng chúng tôi vẫn gắn kết với bà con, vẫn thu hoạch cho bà con, vẫn tìm mọi cách tiêu thụ. Chỉ khi nào không còn cách nào khác mới dừng lại. Thời điểm đó, nhiều cán bộ, ban ngành ủng hộ Vina T&T và bà con cũng tự hào nói: “Vina T&T chưa bao giờ bỏ ai lại phía sau”.
Từ những việc đó, sứ mệnh của chúng tôi dần hình thành. Thực ra, tôi không nghĩ mình sinh ra đã có sứ mệnh gì đặc biệt. Tôi chỉ cố gắng làm tốt nhất trong khả năng của mình. Khi không thể làm được nữa, đã thử mọi cách mà vẫn không xong thì tôi mới chấp nhận dừng lại.
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!
Nội dung: Khổng Chiêm
Thiết kế: Tuấn Nghĩa
06/09/2025 - 07:05
Nguồn: https://dantri.com.vn/kinh-doanh/vua-xuat-khau-trai-cay-di-my-ban-dau-toi-chi-nghi-ban-hang-de-muu-sinh-20250831081956193.htm
Bình luận (0)