Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Bài 2: ‘Nắn dòng vốn xanh’ để phát triển bền vững

Đóng vai trò như huyết mạch để kích hoạt các dự án năng lượng tái tạo, tuy nhiên sau một giai đoạn tăng trưởng nóng, lại đang đối mặt với nhiều thách thức và điều đáng lo ngại là dòng vốn xanh liệu có còn “chảy” đúng hướng?

Báo Đắk NôngBáo Đắk Nông29/05/2025

Bùng nổ đầu tư và những đứt gãy

Sự bùng nổ được đánh dấu trong giai đoạn từ 2018 đến 2021 với chính sách giá FIT (Feed-in Tariff) ưu đãi được Chính phủ ban hành trong các Quyết định 11/2017/QĐ-TTg và sau đó là 13/2020/QĐ-TTg. Giai đoạn này có sự đầu tư mạnh mẽ nhất vào lĩnh vực năng lượng tái tạo tại Việt Nam, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió, cùng sự tham gia của hàng loạt các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã ồ ạt rót vốn vào các dự án điện sạch, tạo nên một làn sóng “chuyển dịch xanh” trên bản đồ năng lượng quốc gia.

Đến cuối năm 2021, Việt Nam đã đưa vào vận hành hơn 17.000 MW điện mặt trời, trong đó có hơn 8.000 MW là hệ thống điện mặt trời mái nhà. Tổng công suất điện mặt trời khi đó chiếm khoảng 25% tổng công suất nguồn toàn quốc – một con số ấn tượng, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu Đông Nam Á về phát triển năng lượng mặt trời. Riêng năm 2020, có thời điểm trung bình mỗi tháng có đến 1.000 MW được đấu nối vào lưới điện quốc gia.

Bài 2 ‘Nắn dòng vốn xanh’ để phát triển xanh
Ảnh minh họa

Điện gió cũng ghi nhận những bước tiến mạnh mẽ. Đến hết năm 2023, Việt Nam có khoảng 3.800 MW điện gió đã vận hành thương mại, phần lớn là nhờ các quyết định đầu tư dồn dập trước thời điểm hết hiệu lực của chính sách giá FIT điện gió (ngày 31/10/2021 theo Quyết định 39/2018/QĐ-TTg). Tổng cộng, gần 4.000 MW điện gió đã được đăng ký đầu tư, trong đó nhiều dự án chưa kịp hoàn tất vận hành đúng hạn và phải xếp vào nhóm “chuyển tiếp” – chưa được công nhận giá bán điện.

Thị trường lúc này có sự tham gia của những cái tên như: Trung Nam, Tài Tâm, BCG, hay GEC cùng với đó là những nhà đầu tư nước ngoài như: Mainstream Renewable Power (Ireland), EDP Renewables (Bồ Đào Nha), Super Energy (Thái Lan), AC Energy (Philippines)… đã ký hợp tác hoặc sở hữu cổ phần trong các dự án tại Việt Nam. Điều này cho thấy được sức hút từ chính sách giá điện ưu đãi đã kéo theo hàng loạt tên tuổi lớn tham gia thị trường.

Đầu tiên là Tập đoàn Trung Nam là một trong những chủ đầu tư hàng đầu trong lĩnh vực năng lượng tái tạo. Dự án điện mặt trời Trung Nam Thuận Nam 450 MW (Ninh Thuận) – đi kèm với trạm biến áp và đường dây truyền tải 500 kV do tư nhân đầu tư – từng được coi là dự án mẫu trong liên kết công – tư. Ngoài ra, Trung Nam còn đầu tư điện gió tại Đắk Lắk, Gia Lai, Trà Vinh với tổng công suất hàng nghìn MW.

Tiếp đó là Tập đoàn BCG (Bamboo Capital) thông qua công ty thành viên BCG Energy, đã triển khai nhiều dự án điện mặt trời và điện mặt trời áp mái tại Long An, Ninh Thuận, Bình Định. Doanh nghiệp này cũng đặt mục tiêu đạt tổng công suất 1.500 MW năng lượng tái tạo vào năm 2025.

Công ty CP Điện Gia Lai (GEG), thuộc Tập đoàn Thành Thành Công (TTC Group), đã đầu tư vào 18 nhà máy thủy điện và điện mặt trời trải dài từ miền Trung đến Tây Nguyên với tổng công suất hơn 400 MW.

Tuy nhiên, “cơn sốt” đầu tư năng lượng tái tạo đã nhanh chóng đối mặt với những điểm nghẽn lớn sau khi các chính sách giá FIT hết hiệu lực. Thị trường năng lượng tái tạo từ cuối năm 2021 rơi vào trạng thái gần như đóng băng, khi chưa có cơ chế giá mới thay thế và hành lang pháp lý cho các dự án chuyển tiếp vẫn còn nhiều bất cập. Số liệu của Hiệp hội Năng lượng tái tạo Việt Nam (REVN), hiện có hơn 84 dự án điện gió và điện mặt trời chuyển tiếp với tổng công suất trên 4.000 MW đã hoàn thành đầu tư hoặc xây dựng xong phần lớn, nhưng không thể vận hành thương mại (COD) vì thiếu khung giá điện, chưa được EVN mua điện, dẫn tới thiệt hại hàng chục tỷ đồng mỗi tháng cho chủ đầu tư.

Những dự án mắc kẹt có thể kể tới như: Dự án điện gió Hòa Đông 1 và 2 (Sóc Trăng) của Công ty CP Super Wind Energy Sóc Trăng. Cụm điện gió của Tập đoàn T&T tại Quảng Trị (Hướng Linh 1, Hướng Tân). Nhiều nhà máy điện mặt trời tại Bình Phước, Gia Lai, Tây Ninh của các nhà đầu tư vừa và nhỏ.

Đáng chú ý, dù Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định 21/QĐ-BCT quy định khung giá điện chuyển tiếp (thấp hơn nhiều so với FIT trước đây), nhưng việc đàm phán giá và ký kết hợp đồng mua bán điện (PPA) với EVN vẫn diễn ra rất chậm, do phải trải qua quá trình thẩm định độc lập, phê duyệt phương án tài chính, kiểm tra hồ sơ đầu tư… Thời gian kéo dài gây thêm áp lực tài chính và nợ vay cho các doanh nghiệp, đặc biệt là những đơn vị vay tín dụng ngân hàng để đầu tư.

Đáng chú ý là việc “đầu tư rồi chờ chính sách” đang khiến nhiều dự án bị rơi vào thế “dở khóc, dở cười” – không vận hành được, nhưng cũng không thể huy động vốn mới hoặc tái cấu trúc tài chính.

“Nắn dòng vốn xanh” đi đúng hướng

Nếu đi đúng hướng, tín dụng xanh không chỉ là động lực cho nền kinh tế carbon thấp mà còn là đòn bẩy giúp Việt Nam thực hiện thành công cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Nhưng nếu tiếp tục thiếu chuẩn mực và đồng bộ, dòng vốn ấy có thể chỉ là “xanh trên giấy”. Theo đó việc “nắn dòng” vốn xanh là cần thiết để nó có thể chảy vào đúng hướng.

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối năm 2023, tổng dư nợ tín dụng xanh tại Việt Nam đạt khoảng 544.000 tỷ đồng, chiếm gần 5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Trong đó, phần lớn tập trung vào các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, nông nghiệp sạch, xử lý nước thải và giao thông bền vững. Tuy nhiên, giới chuyên gia cho rằng con số này chưa phản ánh đúng chất lượng “xanh”, khi chưa có sự phân loại chuẩn hóa và thống nhất giữa các ngân hàng.

Bài 2 ‘Nắn dòng vốn xanh’ để phát triển xanh
“Nắn dòng vốn xanh” đi đúng hướng

Theo Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam - TS. Nguyễn Quốc Hùng, “phần lớn các khoản tín dụng được gán nhãn ‘xanh’ vẫn chưa thực sự theo chuẩn xanh quốc tế. Chúng chỉ dừng lại ở việc cho vay các dự án năng lượng tái tạo, nhưng chưa đánh giá sâu rủi ro môi trường – xã hội hay tuân thủ tiêu chuẩn ESG (môi trường, xã hội và quản trị).”

Trong giai đoạn bùng nổ từ 2018 đến 2021, hàng loạt dự án điện mặt trời, điện gió được các ngân hàng thương mại cấp tín dụng như một khoản vay thông thường. Đa phần các ngân hàng chưa có hệ thống phân loại, đo lường rủi ro môi trường – xã hội, chưa áp dụng Bộ tiêu chuẩn thực hành quốc tế như IFC Performance Standards, EU Taxonomy hay Green Loan Principles.

Trong khi đó, các nguồn vốn thực sự “xanh” từ các tổ chức nước ngoài như: Quỹ Khí hậu xanh (GCF), trái phiếu xanh quốc tế, chương trình tài trợ của ADB, JICA, WB – lại rất hạn chế trong việc tiếp cận đối với doanh nghiệp Việt Nam. Theo khảo sát của Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) cho biết, chỉ khoảng 10% doanh nghiệp Việt Nam đủ điều kiện tiếp cận vốn xanh quốc tế, nguyên nhân chủ yếu do thiếu năng lực lập hồ sơ, không đạt các tiêu chuẩn công bố thông tin, đánh giá rủi ro khí hậu, và thiếu chứng nhận độc lập (third-party verification).

Trong khi thị trường năng lượng tái tạo đang chững lại vì thiếu cơ chế giá mới, các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp, vận tải xanh hay xử lý chất thải lại yêu cầu vốn dài hạn và lãi suất ưu đãi – lại không tiếp cận được các gói vay xanh. Trong khi ngay cả các tổ chức tín dụng cũng chưa mặn mà với các dự án có vòng đời dài, rủi ro cao, chi phí thẩm định lớn.

Theo TS. Trần Đình Thiên – chuyên gia kinh tế, “Tín dụng xanh sẽ không thể phát triển nếu thị trường thiếu thông tin minh bạch, thiếu khung pháp lý rõ ràng và Nhà nước không chia sẻ rủi ro với khu vực tư. Đây là cuộc chơi dài hạn, không thể dùng tư duy tín dụng ngắn hạn để áp dụng.”

Và những giải pháp nào để tín dụng xanh không còn lạc hướng được các chuyên gia đưa ra như: Sớm ban hành khung phân loại xanh quốc gia do Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước phối hợp xây dựng. Đây sẽ là nền tảng để xác định rõ các lĩnh vực, tiêu chí, định mức phát thải… nhằm hướng dòng tín dụng vào đúng mục tiêu xanh thực chất.

Đồng thời, Nâng cao năng lực tài chính xanh của doanh nghiệp, thông qua các chương trình hỗ trợ lập hồ sơ, tư vấn tiêu chuẩn quốc tế và đào tạo ESG. Vai trò của các tổ chức trung gian, các quỹ bảo lãnh tín dụng xanh là rất cần thiết. Và đẩy mạnh kết nối với nguồn vốn quốc tế.

Tín dụng xanh đang đứng trước một ngã rẽ, một bên là nhu cầu vốn khổng lồ để đạt các cam kết khí hậu, bên còn lại là sự dè dặt, thiếu chuẩn mực, và hạn chế nội lực của cả hệ thống tài chính lẫn doanh nghiệp. Để dòng vốn thực sự “xanh” và “chảy đúng hướng”, Việt Nam cần sớm ban hành Khung phân loại xanh quốc gia, hoàn thiện tiêu chuẩn báo cáo ESG, và thúc đẩy cơ chế chia sẻ rủi ro để kích hoạt sự tham gia của thị trường tài chính vào mục tiêu phát triển bền vững. Đặc biệt, nếu không có giải pháp tháo gỡ về tín dụng xanh, rất có thể sẽ xảy ra hiện tượng “phá sản xanh” trên diện rộng, kéo theo rủi ro nợ xấu tại các ngân hàng./.

Nguồn: https://baodaknong.vn/bai-2-nan-dong-von-xanh-de-phat-trien-ben-vung-254018.html


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

Đà Nẵng mùa hè này có gì thú vị?
Thế giới hoang dã trên đảo Cát Bà
Hành trình bền bỉ trên cao nguyên đá
Cát Bà - bản giao hưởng của mùa hè

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm