Đến nay, lớp nghệ sĩ đầu tiên của Đoàn Văn công Tây Nguyên trên đất Bắc hầu hết đã thành người thiên cổ. Chuyện về đoàn nghệ thuật “một thời vang bóng” ấy giờ chỉ có thể cậy vào nghệ sĩ Siu Phích. Đã qua cái tuổi 80 song ông Siu Phích vẫn còn minh mẫn lắm, chất giọng opéra vẫn rất vang. Được tuyển vào Đoàn Văn công Tây Nguyên từ lúc còn là một cậu bé mới 15 tuổi đi tập kết, hơn 30 năm làm nghệ thuật thì quãng thời gian ông ở trên đất Bắc đã là 20 năm, dễ gì quên?
Lão nghệ sĩ Siu Phích hồi nhớ: “Gọi “Đoàn Văn công Tây Nguyên” nhưng thực tế đoàn còn một số diễn viên các dân tộc khác. Song, đông nhất vẫn là người Tây Nguyên: Nay Quách, Nay Pha, chị Nay Vil, H’Ben, Siu Pơi, Y Dơn, Siu Ken, Kpah Púi, Thảo Giang… Sau này bổ sung thêm Y Brơm, Y Tư, Xuân La… Trưởng đoàn là ông Siu Ken. Hai phó đoàn là Kpah Púi và nhạc sĩ Nhật Lai. Địa điểm đóng quân của đoàn lúc đầu ở trại Mai Hồ, đến năm 1962 chuyển về khu văn công ở Cầu Giấy, Hà Nội. Khu tập thể ấy là những dãy nhà tranh vách nứa, lúc mưa to nước tràn cả vào nhà. Những anh chị có gia đình như nhạc sĩ Nhật Lai, chị H’Ben được một gian phòng chừng 15 m2; còn chúng tôi thì 4-5 người chung một gian. Tiêu chuẩn lương thực mỗi người 15 kg gạo/tháng và cũng phải “độn” như tất cả mọi người thời ấy. Tuy nhiên, ngoài tiêu chuẩn chung, mỗi chúng tôi còn được thêm 2 kg đường, 2 kg thịt lợn “bồi dưỡng thanh sắc”. Trong điều kiện khó khăn của miền Bắc lúc ấy, tiêu chuẩn như thế kể cũng đã là ưu tiên”.
Đoàn Ca múa Quân Giải phóng với sự góp mặt của các diễn viên Đoàn Văn công Tây Nguyên tại Lahabana, Cu Ba. Ảnh tư liệu |
Sự gian khổ đáng kể hơn là những chuyến lưu diễn. Các tỉnh Tây Bắc, Việt Bắc ngày ấy đều mòn gót các văn nghệ sĩ của đoàn. Đường sá hiểm trở, chênh vênh như đi trên mây. Nhiều quãng ngồi trên xe tải nhìn xuống vực sâu hun hút lạnh cả gáy. Đến huyện đường hết, lương thực, đạo cụ phải chất lên vai cõng bộ. Thêm nỗi khổ là nước sinh hoạt. Có những nơi như Mèo Vạc, đoàn phải cử hai người chuyên đi cõng nước về, chia từng người từng cốc nhỏ. Điện không có, nhiều lúc phải “hát chay”. Đêm diễn, ngày phải lo học văn hóa. Anh chị em bấy giờ hầu hết chữ nghĩa còn bập bõm. Để việc học không bị gián đoạn, Bộ Văn hóa cử ông Trúc Cương đi theo đoàn làm giáo viên. Đến điểm biểu diễn nào, ổn định xong chỗ ở là lôi ngay giấy vở, phấn, bảng ra học…
“Gian khổ và bận rộn thế nhưng mỗi chuyến đi diễn vẫn là mỗi niềm vui. Trong bối cảnh đời sống tinh thần rất thiếu thốn, đi đến đâu anh chị em cũng được đồng bào quý mến như người thân. Đặc biệt là bộ đội. Họ nhường nhịn, chăm chút cho anh chị em đủ thứ. Sức thu hút của đoàn chinh phục được cả bọn thổ phỉ. Ở Hà Giang sau này ta bắt được một tốp phỉ, chúng khai rằng một lần đoàn lên diễn, chúng đã toan ném lựu đạn lên sân khấu, sau thấy chị H’Ben mặc trang phục dân tộc, hát hay quá nên mãi nghe rồi thôi…”, ông Siu Phích kể.
Ngừng lại một thoáng, chừng như để nén sự xúc động rồi ông kể tiếp: “Tuy nhiên bao trùm lên tất cả vẫn là tình thương mến của Bác Hồ dành cho đoàn. Có thể nói, Bác luôn đối với các anh chị em diễn viên Đoàn Văn công Tây Nguyên tình cảm thân thương nhất. Những dịp các vị khách quý đến thăm Bác như vợ chồng luật sư Loseby, Tổng thống Indonesia Sukarno hay lãnh đạo khối các nước xã hội chủ nghĩa, Bác đều cho gọi anh chị em đến biểu diễn. Mỗi lần biểu diễn cho Bác xem là những kỷ niệm vô cùng đáng nhớ. Một lần, đoàn biểu diễn cho Bác xem tại Phủ Chủ tịch. Đang cao hứng, một người sơ ý vướng vào lọ hoa để trên bàn khiến lọ hoa rơi xuống nền nhà vỡ tan.
Mọi người sững lại lo sợ nhưng Bác đã xua tay: “Các cháu cứ tiếp tục đi. Lọ hoa vỡ thì ta mua lọ khác. Một tiết mục hay như thế không thể ngừng”… Xong buổi biểu diễn, Bác mời anh chị em ăn kẹo. Các diễn viên vui vẻ xúm quanh Bác thì bỗng Bác bảo: “Các cháu khoan ăn, hãy nhìn và làm theo Bác đây”… Bác lấy ít kẹo và thuốc lá cho vào túi, mọi người rụt rè làm theo. Nhìn khắp lượt chờ mọi người thực hiện xong, Bác cười: “Bây giờ thì các cháu ngồi xuống ăn kẹo, hút thuốc tự nhiên đi. Vừa rồi Bác bảo các cháu làm như vậy để làm gì, các cháu biết không?” Mọi người vẫn chưa hiểu, Bác bảo: “Các cháu đến thăm Bác, biểu diễn văn nghệ cho Bác xem, lúc về lỡ bạn bè hỏi: “Vào biểu diễn cho Bác có quà gì không” thì các cháu trả lời sao?” Mọi người lúc bấy giờ mới hiểu ra… Rồi Bác hỏi thăm sức khỏe, gia đình, điều kiện ăn ở của từng người. Ai cũng rơm rớm nước mắt bởi tấm lòng yêu thương mênh mông như biển trời của Bác”.
Năm 1968, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta bước vào thời kỳ quyết liệt. Để tranh thủ hơn nữa tình đoàn kết và sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, Bộ Văn hóa thành lập “Đoàn ca múa Quân giải phóng miền Nam” với thành phần là diễn viên ưu tú của các đoàn nghệ thuật. Đoàn Văn công Tây Nguyên có 4 diễn viên vinh dự được chọn: Siu Phích, Nay Pha, H’Ben và Siu Ly.
Ông Siu Phích nhớ lại: “Mang sứ mệnh cao cả đó, chúng tôi được chăm lo rất chu đáo. Chúng tôi sang Trung Quốc ở lại một thời gian để tập huấn thêm rồi lên tàu hỏa đi Liên Xô. Từ Liên Xô, đoàn được bạn đưa đến Cu Ba bằng máy bay. Đấy là chuyến biểu diễn đầu tiên trong lịch trình của chúng tôi và cũng là chuyến biểu diễn ấn tượng nhất. Với tấm lòng kính trọng và yêu mến sẵn có đối với nhân dân Việt Nam, bạn coi đoàn ta như thể báu vật. Mỗi lần đoàn di chuyển đến đâu, bạn lại cho đoàn mô tô hộ tống. Suốt gần 2 tháng, buổi biểu diễn nào khán giả cũng chật cứng nhà hát. Đích thân Chủ tịch Fidel Castro cũng đến xem cổ vũ đoàn. Bài hát “Oantanamera” nhiều người biết bây giờ chính là do anh chị em mang về trong lần lưu diễn ấy... Sau Cu Ba, đoàn tiếp tục chuyến lưu diễn tại Liên Xô và một số nước ở Đông Âu rồi quay về biểu diễn tại Trung Quốc, Triều Tiên. Chuyến đi kéo dài gần 1 năm trời. Đến nước nào, đoàn ta cũng được chào đón và quan tâm rất mực. Để đáp lại tình cảm đó, anh chị em đã biểu diễn hết mình. Mở đầu chương trình bao giờ cũng là bài hát “Giải phóng miền Nam” hùng tráng! Rồi những “Thời thanh niên sôi nổi”, “Cuộc sống - ta mến yêu người” được hát bằng tiếng Nga với những giọng ca bậc nhất bấy giờ như Quang Hưng, Quang Thắng, Dương Phú… được hoan nghênh nhiệt liệt. Đặc biệt là tiết mục độc tấu đàn T’rưng của anh Nay Pha. Lần đầu tiên khán giả Đông Âu mới thấy một nhạc cụ kỳ lạ mà âm thanh cũng kỳ lạ đến thế. Nhiều nơi, anh Nay Pha phải biểu diễn lại theo yêu cầu đến 2-3 lần. “Người Việt Nam rất giỏi, rất thông minh” - không ít lần chúng tôi đã nghe khán giả bạn khen ngợi thế. Một kỷ niệm đáng nhớ là lúc biểu diễn ở Triều Tiên. Là người ham học hỏi, anh Nay Pha đã mày mò học cách chơi trống của bạn. Đến xem đoàn biểu diễn, lúc bắt tay chào, Chủ tịch Kim Nhật Thành hỏi anh Nay Pha: “Trống Triều Tiên chơi rất khó, anh học trong bao lâu?”. Nay Pha trả lời: “Thưa, học một ngày không kịp thở”. Chủ tịch Kim bảo: “Thông thường người Triều muốn thành thạo phải học ba tháng. Người Việt Nam thông minh như thế, chắc chắn là thắng Mỹ rồi!”.
“Năm 1977, Đoàn Văn công Tây Nguyên được trở về phục vụ quê hương sau hơn 20 năm đằng đẵng nhớ mong. Sau chuyến lưu diễn đó, anh chị em lần lượt xin chuyển về quê làm nòng cốt cho những đoàn nghệ thuật tỉnh mới thành lập... Từ đây mỗi người mỗi phương nhưng chúng tôi ai cũng nhớ và tự hào về một thời “người nghệ sĩ cũng là chiến sĩ” ấy...”, ông Siu Phích ngừng kể, đôi mắt chợt trầm tư nhìn ra khoảng hiên đầy nắng...
Nguồn: https://baodaklak.vn/van-hoa-du-lich-van-hoc-nghe-thuat/202508/doan-van-cong-tay-nguyen-mot-thoi-vang-bong-8e10f0c/
Bình luận (0)