Tư tưởng hội nhập quốc tế của đất nước xuyên suốt từ khi thành lập nước. (Nguồn: VGP) |
Đổi mới và đổi mới tư duy không phải là vấn đề mới. Điều này đã được các bậc thầy về cách mạng đề cập từ sớm. V.I Lênin nói: “Người cộng sản phải có dũng khí nhìn vào sự thật, phải có gan vứt bỏ những nhận thức của ngày hôm qua không phù hợp với tình hình diễn biến của ngày hôm nay, phải biết “thay đổi sách lược, chọn một con đường khác để đi tới đích của chúng ta, nếu con đường cũ, trong một thời gian nhất định nào đó, xem ra không thích hợp nữa, không đi theo được nữa”[1].
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Phải biết rằng tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không hợp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp tình hình, ta sẽ bị bỏ rơi, bị các bạn tỉnh táo nhanh nhẹn hơn vượt đi trước...Không chịu tự phê bình, không chỉ trích thì không bao giờ tấn tới được”[2]. “Xã hội bây giờ ngày một phát triển. Tư tưởng hành động cũng phát triển. Nếu cứ giữ lấy cái kẹp giấy cũ không thay đổi là không đi đến đâu cả”[3] .
Hội nhập quốc tế - Tư tưởng xuyên suốt
Tư tưởng hội nhập quốc tế của đất nước xuyên suốt từ khi thành lập nước. Ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trong lời kêu gọi gửi Liên hợp quốc ( tháng 12/1946 ), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu tư tưởng hội nhập với thế giới của Việt Nam: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: i) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; ii) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; iii) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc”.
Đại sứ Nguyễn Đức Hùng. |
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chiến tranh kéo dài, cuộc đấu tranh ý thức hệ trong chiến tranh Lạnh, bị bao vây cấm vận, ta chủ yếu tham gia hội nhập trong phe Xã hội chủ nghĩa (XHCN), về kinh tế là khối SEV. Sau Đại hội VI (năm 1986) Việt Nam bắt đầu mở rộng quan hệ ra ngoài khối XHCN song vẫn còn một số ý kiến e ngại khi nói đến “kinh tế thị trường”, “mở cửa”, không muốn dùng khái niệm “hòa nhập quốc tế” e ngại bị “hòa tan”.
Nhưng đến khi Liên Xô và các nước XHCN Đông âu sụp đổ, thế giới thay đổi nhanh chóng, xu thế toàn cầu hóa phát triển mạnh, một số nước khu vực hội nhập thành công, ta đã chuyển biến mạnh về tư duy hội nhập và đến Đại hội VII (năm 1991) thúc đẩy rõ rệt xu hướng hội nhập quốc tế với các bước phá bao vây cấm vận, bình thường hoá quan hệ với các nước lớn, tham gia ASEAN, APEC, ASEM, WTO, BTA, RCEP và CPTPP từ giữa thập kỷ 90 và cho đến nay thì đã và đang tham gia vào hầu hết các cơ chế, tổ chức đa phương khu vực và thế giới theo tinh thần chủ động và tích cực của Đại hội XI, Nghị quyết 22 và gần đây nhất là Nghị quyết 59 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Quyết sách đột phá trong bối cảnh mới
Nghị quyết số 59-NQ/TW về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới” được Bộ Chính trị ban hành ngày 24/1/2025 là quyết sách đột phá, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước, xác định hội nhập là động lực chiến lược để Việt Nam tự tin bước vào kỷ nguyên mới. Quan điểm xuyên suốt của Nghị quyết là: Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, làm chủ thể sáng tạo. Nghị quyết thể hiện tầm nhìn sâu sắc: hội nhập quốc tế không chỉ là mở cửa, giao lưu, mà là một sự nghiệp tổng hợp, đòi hỏi sự chủ động, tích cực và rất có bản lĩnh.
Chủ động hội nhập quốc tế cần được hiểu trên những nội dung cơ bản sau:
i) Chủ động quyết định đường lối hội nhập, xác định lộ trình, bước đi và các chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế, an ninh quốc phòng, khoa học - công nghệ, văn hóa, xã hội…không để bị cuốn hút vào vòng đua hội nhập một cách tự phát, nóng vội, bị động;
ii) Chủ động đưa ra sáng kiến, phân tích, lựa chọn phương thức hành động đúng và dự báo được những tình huống thuận lợi, khó khăn khi hội nhập; đề xuất các biện pháp tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức; chủ động thực hiện các cam kết song phương, đa phương; tham gia xây dựng và vận dụng các “luật chơi" của các thể chế đa phương trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của đất nước;
iii) Chủ động phát huy vai trò là thành viên tích cực, có trách nhiệm tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, góp phần nâng vị thế quốc tế của Việt Nam lên một tầm cao mới;
iv) Chủ động cùng các nước đối tác triển khai mạnh mẽ và hoàn thiện các khuôn khổ quan hệ, nhất là với các đối tác hàng đầu, có tầm chiến lược hoặc có nhiều tiềm năng hợp tác với Việt Nam, nhằm đưa các khuôn khổ quan hệ này đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững trong thập niên tiếp theo của thế kỷ XXI; đồng thời tiếp tục mở rộng quan hệ hữu nghị , hợp tác với các nước trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi;
v) Chủ động khắc phục những vấn đề còn tồn tại trong công tác đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua và xây dựng các cơ chế phối hợp một cách chặt chẽ và hiệu quả giữa các bộ, ngành, địa phương, đoàn thể và doanh nghiệp trong quản lý và triển khai các hoạt động hội nhập;
vi) Chủ động kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam.
Đại sứ Nguyễn Đức Hùng tháp tùng Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm dự một phiên họp của Đại hội đồng Liên hợp quốc tại NewYork, Mỹ năm 1992. (Ảnh: TGCC) |
Tích cực hội nhập quốc tế cần được hiểu là: i) Không chần chừ, do dự mà khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới bên trong, từ phương thức lãnh đạo quản lý đến hoạt động thực tiễn, từ trung ương đến địa phương, doanh nghiệp;
ii) Tích cực nhưng phải có sự chuẩn bị kỹ về điều kiện bên trong, dự báo chính xác tình hình, có đội ngũ cán bộ đủ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ đáp ứng tốt yêu cầu hội nhập quốc tế;
iii) Khẩn trương khắc phục tình trạng trì trệ, và tâm lý trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước; tích cực xây dựng và thực hiện chiến lược, lộ trình, kế hoạch hội nhập quốc tế, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; mạnh dạn đẩy mạnh và đa dạng hóa hoạt động hội nhập quốc tế, lấy hội nhập kinh tế làm cơ sở để mở rộng hội nhập sang các lĩnh vực khác phù hợp với lợi ích an ninh và phát triển của đất nước;
iv) Tích cực huy động và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài chú trọng những thành tựu công nghệ mới trong cách mạng công nghiệp 4.0, phục vụ đắc lực các chương trình, chiến lược kinh tế - xã hội vì sự phát triển bền vững của đất nước;
v) Đẩy mạnh nghiên cứu, xây dựng các phương án tìm giải pháp bộ phận/ toàn diện nhằm thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới lãnh thổ với các nước láng giềng trên tinh thần bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, duy trì cục diện quan hệ ổn định với các nước liên quan, góp phần củng cố môi trường hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới;
vi) Tích cực rà soát, đôn đốc đàm phán và triển khai thực hiện các thoả thuận đã ký với các đối tác; tích cực hơn nữa trong công tác nghiên cứu, thông tin, dự báo, theo sát các diễn biến của tình hình quốc tế và khu vực, nắm bắt kịp thời các vấn đề phát sinh để có những kiến nghị, đối sách kịp thời;
vii) Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống và nhất là tình trạng biến đổi khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, quan điểm nhất quán của Đảng ta đối với công tác quản lý, phối hợp các hoạt động hội nhập là : Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước, phát huy tinh thần làm chủ và sáng tạo của nhân dân; phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hoá; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh nhằm giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
[1] Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, H, 2003, tr.474-475.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1995, t.4, tr.26
[3]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.35.
Nguồn: https://baoquocte.vn/doi-moi-tu-duy-va-su-nghiep-hoi-nhap-quoc-te-cua-viet-nam-323675.html
Bình luận (0)