Tại Phiên giải trình tại Kỳ họp thứ 18, các vấn đề này được đại biểu HĐND tỉnh đặt ra thảo luận và đề nghị lãnh đạo UBND tỉnh, sở, ngành tỉnh giải trình, đề ra giải pháp cụ thể trong thời gian tới.
VÌ SAO KHU VỰC PHÍA TRONG ĐÊ BIỂN GÒ CÔNG KHÔNG THỂ CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT?
Tại Phiên giải trình, các đại biểu HĐND tỉnh cho rằng, hiện nay, khu vực phía trong đê biển Gò Công (khu vực từ xã Tân Thành đến xã Kiểng Phước, huyện Gò Công Đông), một số hộ dân dù đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) nhưng không thể thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nguyên nhân là do chưa được xác định rõ ranh giới giữa đất người dân quản lý và đất do Nhà nước quản lý. Tình trạng này ảnh hưởng đến quyền sử dụng đất hợp pháp của người dân; đồng thời, làm mất cơ hội đầu tư của doanh nghiệp vì không thể xây dựng công trình tại khu vực nói trên.
Đồng chí Đoàn Văn Phương giải trình các vấn đề đại biểu HĐND tỉnh đặt ra. |
Bên cạnh đó, hoạt động phát triển du lịch ven đê biển Gò Công hiện nay chủ yếu diễn ra tự phát, thiếu định hướng và quy hoạch cụ thể, gây ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện Nghị quyết 11 ngày 5-4-2017 của Tỉnh ủy về phát triển du lịch tỉnh Tiền Giang đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, đặc biệt là định hướng phát triển du lịch ven biển. Đại biểu đề nghị lãnh đạo ngành Nông nghiệp và Môi trường ((NN&MT) cho biết giải pháp để khắc phục tình trạng trên.
Trả lời vấn đề này, Giám đốc Sở NN&MT Đoàn Văn Phương cho biết, một số hộ dân sống trên tuyến cặp đê biển từ xã Tân Thành đến xã Kiểng Phước được UBND huyện cấp GCNQSDĐ năm 1997. Vào khoảng năm 2000, tỉnh triển khai thi công nâng cấp đê biển; trong đó, có lấy đất khu vực cặp chân đê cách chân đê cũ đến vị trí lấy đất là 50 m tạo thành tuyến kinh Láng Đê (kinh cặp đê hiện tại) hiện trạng chiều dài khoảng 2.500 m, chiều rộng trung bình từ 20 - 30 m. Hiện nay, hộ dân xin cấp đổi lại GCNQSDĐ trên phần kinh Láng Đê để thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng chưa được UBND huyện xem xét giải quyết.
Căn cứ Luật Đất đai 1993, Luật Đất đai 2003, Luật Đất đai 2013 và Luật Đất đai 2024; việc cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình, cá nhân và quản lý đất công trên địa bàn thuộc thẩm quyền của UBND huyện Gò Công Đông.
Thời gian qua, Sở NN&MT chưa nhận báo cáo kiến nghị vướng mắc nội dung này. Để giải quyết nội dung trên, Sở NN&MT sẽ phối hợp các đơn vị có liên quan và UBND cấp xã rà soát hồ sơ từng trường hợp cụ thể để có đề xuất hướng giải quyết theo quy định pháp luật, thời gian dự kiến thực hiện từ nay đến ngày 31-7-2025.
Đối với hoạt động phát triển du lịch ven đê biển Gò Công, Sở NN&MT cho biết, thời gian qua, trên địa bàn huyện, giữa Quy hoạch sử dụng đất và Quy hoạch xây dựng vùng huyện theo Quyết định 988 ngày 10-4-2020 về việc phê duyệt quy hoạch xây dựng vùng huyện Gò Công Đông đến năm 2030 và định hướng đến năm 2045 có sự chồng chéo chưa đồng bộ.
Hiện nay, Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 đã điều chỉnh tại Quyết định 1199 ngày 12-5-2025 nhưng Quy hoạch vùng huyện chưa điều chỉnh kịp thời làm mất cơ hội đầu tư của doanh nghiệp vì không thể chuyển mục đích sử dụng đất để xây dựng công trình phát triển du lịch.
Hiện nay, phát triển du lịch ven đê biển Gò Công đã được định hướng theo Quy hoạch tỉnh được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1762 ngày 31-12-2023 về việc phê duyệt Quy hoạch tỉnh Tiền Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định 1199 ngày 12-5-2025 của UBND tỉnh về việc phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 và kế hoạch sử dụng năm đầu của điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất huyện Gò Công Đông.
Qua đó, vị trí, diện tích các khu đất quy hoạch để phát triển du lịch được xác định theo Bản đồ điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 trên địa bàn huyện Gò Công Đông. Căn cứ theo quy hoạch, thời gian tới, cơ quan chuyên môn và UBND cấp xã thực hiện mời gọi đầu tư phát triển du lịch và thực hiện quản lý nhà nước về đất đai theo Luật Đất đai 2024 và quy hoạch đã được phê duyệt.
Mặt khác, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp và sát nhập tỉnh Tiền Giang với tỉnh Đồng Tháp thì cần thiết phải rà soát điều chỉnh quy hoạch tỉnh, quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng vùng huyện nhằm định hướng bố trí phát triển du lịch ven biển bài bản và khoa học.
KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG NHIỄM CADIMI VÀ VÀNG O TRÊN TRÁI SẦU RIÊNG
Tại Phiên giải trình, đại biểu tiếp tục đặt vấn đề, trái sầu riêng là mặt hàng nông sản chủ lực và xuất khẩu mũi nhọn của địa phương. Khi bị phát hiện nhiễm chất Cadimi và Vàng O, giá sầu riêng bị giảm mạnh, bị từ chối nhập khẩu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thu nhập và đời sống của nông dân, cũng như uy tín của thương hiệu sầu riêng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đại biểu đề nghị Giám đốc Sở NN&MT cho biết giải pháp để khắc phục tình trạng trên.
Giải trình vấn đề này, Giám đốc Sở NN&MT Đoàn Văn Phương cho biết, qua kết quả bước đầu xác định, 2 nguồn có khả năng dẫn đến nhiễm Cadimi gồm: Các loại phân bón được sử dụng có chứa phosphate; đất trồng có pH thấp và hóa chất được sử dụng tại cơ sở đóng gói. Để khắc phục tình trạng nhiễm Cadimi và Vàng O, ngành Nông nghiệp tỉnh đã lấy mẫu phân bón, đất, nước, khoanh vùng, xác định các nguy cơ có khả năng gây nhiễm kim loại nặng Cadimi, Vàng O làm cơ sở để khuyến cáo nhà vườn canh tác, giúp giảm thiểu nguy cơ nhiễm Cadimi.
Đồng thời, Sở NN&MT đã phối hợp địa phương, doanh nghiệp thực hiện 7 mô hình kiểm soát Cadimi tại các vùng trồng sầu riêng kết hợp canh tác sầu riêng theo hướng an toàn, đảm bảo chất lượng xuất khẩu tại 2 huyện Cái Bè và Cai Lậy.
Sau 4 tháng thực hiện, các mô hình có khuynh hướng giúp pH đất tăng 0,5 - 0,92 và Cadimi trong cành, lá giảm 0,02 - 0,03 mg/kg, Cadimi trong đất đang chờ kết quả phân tích. Các mô hình đang được tiếp tục theo dõi các chỉ tiêu, khi có kết quả chính thức sẽ thực hiện sơ, tổng kết và nhân rộng vào sản xuất.
Cùng với đó là tuyên truyền, hướng dẫn, khuyến cáo nhà vườn Quy trình kỹ thuật thâm canh tổng hợp cây sầu riêng cũng như biện pháp hạn chế việc nhiễm kim loại nặng Cadimi trong sản phẩm sầu riêng; hướng dẫn các cơ sở đóng gói cần thực hiện vệ sinh công nghiệp tại cơ sở đảm bảo quy trình đóng gói, bảo quản và xử lý sản phẩm tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm theo quy định, tuyệt đối không sử dụng hóa chất không có trong danh mục được phép sử dụng, hóa chất cấm sử dụng và đặc biệt là hóa chất có chứa Vàng O; yêu cầu các vùng trồng, cơ sở đóng gói thực hiện việc kiểm tra dư lượng kim loại nặng, chất Vàng O và thực hiện truy xuất nguồn gốc theo yêu cầu của nước nhập khẩu trước khi xuất khẩu.
Đặc biệt, đối với các cơ sở đóng gói khi mua sản phẩm sầu riêng, phải có hồ sơ truy xuất nguồn gốc từ các vùng trồng được thu mua để đóng gói xuất khẩu; triển khai các giải pháp quản lý vùng trồng, cơ sở đóng gói;
Các đơn vị liên quan đã tổ chức 2 hội nghị Phổ biến các quy định liên quan đến vùng trồng, cơ sở đóng gói và đề xuất giải pháp khắc phục, đảm bảo chất lượng trái cây tươi phục vụ xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Tiền Giang; thực hiện 27 cuộc tập huấn với 1.438 người tham dự, hướng dẫn nông dân áp dụng các biện pháp cải tạo đất, bảo vệ sức khỏe cây trồng và giảm thiểu tồn dư Cadimi trong sản phẩm xuất khẩu.
Thời gian tới, đơn vị liên quan sẽ tiếp tục lấy mẫu kiểm tra hàm lượng Cadimi trong các loại phân bón sử dụng phổ biến, khuyến cáo nông dân sử dụng phân bón không có chứa Cadimi hoặc có chứa hàm lượng Cadimi cực thấp để hạn chế sự tích lũy của Cadimi trong đất và sản phẩm.
Đồng thời, khuyến cáo nhà vườn canh tác theo quy trình chuẩn để kiểm soát nhiễm kim loại nặng. Đồng thời, tổ chức lớp tập huấn bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ kỹ thuật của vùng trồng, cơ sở đóng gói về các yêu cầu của các nước nhập khẩu, nhất là quy trình sản xuất đảm bảo an toàn thực phẩm (quản lý tốt Cadimi, chất Vàng O); tiếp tục lấy mẫu phân bón phân tích hàm lượng Cadimi để có thêm nhiều sản phẩm phân bón phù hợp, khuyến cáo người dân lựa chọn sử dụng.
Cùng với đó là phối hợp với doanh nghiệp và địa phương lấy mẫu đất phân tích, thực hiện bản đồ số hóa (khoanh vùng xác định vùng không nhiễm, nhiễm nhẹ, vùng nguy cơ) để có khuyến cáo cho sản xuất và tiêu thụ; tiếp tục lấy mẫu hóa chất xử lý sau thu hoạch tại các cơ sở đóng gói kiểm tra chất Vàng O, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Đồng thời, theo dõi các mô hình khắc phục Cadimi đang triển khai thực hiện tại các địa phương; thực hiện sơ, tổng kết và nhân rộng vào sản xuất, góp phần đảm bảo chất lượng sản phẩm phục vụ xuất khẩu.
HOÀI THU - TUẤN LÂM
Nguồn: https://baoapbac.vn/kinh-te/202506/ky-hop-thu-18-hdnd-tinh-tien-giang-khoa-x-giai-trinh-lam-ro-cac-van-de-dai-bieu-cu-tri-quan-tam-1046095/
Bình luận (0)