.jpg)
THỨ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ MÔI TRƯỜNG VÕ VĂN HƯNG:
Nhận diện thực trạng, thúc đẩy phát triển
Nhằm hỗ trợ các nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống trong cả nước nói chung, cũng như của thành phố Đà Nẵng nói riêng, đáp ứng bối cảnh yêu cầu phát triển bền vững, chuyển đổi số và hội nhập ngày càng sâu rộng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ đề xuất với Chính phủ chỉ đạo bộ chủ trì xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 52/2018/NĐ-CP về phát triển ngành nghề nông thôn, trong đó chú trọng định hướng “xanh hơn - số hơn - vươn xa hơn”.
Đồng thời sửa đổi, nâng cấp chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề giai đoạn 2026 - 2035 theo hướng tích hợp với chương trình OCOP, chuyển đổi số, du lịch nông thôn, đào tạo nghề, phát triển thị trường, thương hiệu và tôn vinh công nhận nghệ nhân ở địa phương.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng sẽ kiến nghị Chính phủ tăng cường bố trí ngân sách, huy động các nguồn lực xã hội hóa cho đầu tư phát triển hạ tầng làng nghề, trung tâm thiết kế - sáng tạo, xử lý môi trường và số hóa dữ liệu làng nghề, xây dựng bản đồ số làng nghề.
Cho phép xây dựng cơ sở dữ liệu số quốc gia về nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống với mã hóa địa lý, phân loại ngành nghề, định danh quốc gia các hộ nghề và chủ thể làng nghề liên quan, gắn kết với bản đồ quy hoạch xây dựng nông thôn mới.
Đưa nội dung bảo tồn, phát triển bền vững, nâng tầm làng nghề, giữ gìn văn hóa bản địa, du lịch làng nghề, không gian sống thông qua phát triển làng nghề là một nội dung trọng tâm trong các chương trình mục tiêu quốc gia.
Trong quá trình xây dựng chính sách, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tăng cường phối hợp với các bộ, ngành liên quan, nhất là trên các lĩnh vực khoa học - công nghệ, tài nguyên và môi trường, công thương, văn hóa - du lịch, lao động - đào tạo nghề, tài chính và ngân hàng, nhằm đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả khi triển khai.
Đồng thời hỗ trợ rà soát, cập nhật danh mục nghề truyền thống, xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho một số ngành nghề đặc thù; đề xuất chương trình xúc tiến thương mại, thương hiệu và bảo hộ sở hữu trí tuệ quốc tế cho sản phẩm làng nghề.
Về phía địa phương, cần chủ động xây dựng, lồng ghép chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2026 - 2030.
Chú trọng hỗ trợ đào tạo, truyền nghề, chuyển giao công nghệ, xử lý môi trường và phát triển sản phẩm OCOP gắn với bản sắc văn hóa, ưu tiên các làng nghề đặc sắc có tiềm năng liên kết chuỗi giá trị, phát triển du lịch, xuất khẩu.
Để giữ nghề truyền thống, tạo sự phát triển cho làng nghề, làng nghề truyền thống, thì vinh danh, tôn vinh nghệ nhân là một giải pháp quan trọng địa phương cần thường xuyên thực hiện.

BÀ NGUYỄN THỊ HOÀNG YẾN, PHÓ CỤC TRƯỞNG CỤC KINH TẾ HỢP TÁC VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN (BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ MÔI TRƯỜNG):
Cần ứng dụng phù hợp khoa học kỹ thuật
Ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ vào hoạt động sản xuất tại các làng nghề, thời gian qua đã có những chuyển biến, tuy nhiên còn ở mức khiêm tốn, chưa đồng đều giữa các vùng, ngành nghề.
Nguyên nhân là do thiếu chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ đặc thù cho khu vực làng nghề. Thiếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật dùng chung (trung tâm thiết kế, kiểm nghiệm, gia công, xử lý nguyên liệu, truy xuất...) để hỗ trợ các cơ sở quy mô nhỏ, hộ sản xuất cá thể.
Không có chương trình đào tạo kỹ thuật - công nghệ chuyên biệt cho nghệ nhân, thợ giỏi dẫn đến tình trạng lạc hậu, sản phẩm chậm được cải tiến về mẫu mã, chất lượng, chưa thích ứng với thị trường số. Việc ứng dụng các công nghệ số như thiết kế 3D, mô phỏng quy trình, thương mại điện tử, mã QR… còn rất hạn chế, chủ yếu do thiếu năng lực và hỗ trợ đào tạo.
Bởi vậy, rất cần bổ sung chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học kỹ thuật cho các ngành nghề nông thôn gắn với cơ chế tài chính ưu đãi, tín dụng xanh, hỗ trợ một phần chi phí đầu tư thiết bị cho cơ sở làng nghề.
Cần xây dựng các trung tâm sáng tạo và thiết kế làng nghề cấp vùng để hỗ trợ thiết kế mẫu mã, ứng dụng công nghệ 3D, AI, thực tế ảo, thử nghiệm vật liệu mới, bao bì, truy xuất QR và phát triển dữ liệu số về sản phẩm.
Thúc đẩy liên kết giữa các trường đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp hợp với làng nghề; có các giải pháp công nghệ gắn với thực tiễn sản xuất và truyền thống văn hóa bản địa.
Đưa nội dung đào tạo kỹ năng số, kỹ thuật sản xuất tiên tiến, mô phỏng quy trình công nghệ vào chương trình tập huấn cho nghệ nhân và lao động làng nghề, có học liệu mô phỏng và thực hành tại chỗ.

ÔNG TRỊNH QUỐC ĐẠT, CHỦ TỊCH HIỆP HỘI LÀNG NGHỀ VIỆT NAM:
Liên kết chặt vì sự bền vững của làng nghề
Thực trạng liên kết sản xuất ở các làng nghề hiện nay còn nhiều hạn chế. Liên kết giữa các hộ sản xuất trong các làng nghề tự phát, chưa có điều phối chung, thiếu bền vững.
Cơ sở sản xuất trong làng nghề thường hoạt động độc lập, ít chia sẻ nguồn lực, thông tin hay hợp tác sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Liên kết dọc (từ sản xuất đến tiêu thụ) chưa chặt chẽ nên chi phí cao, hiệu quả thấp, dễ bị thương lái ép giá.
Ít có doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tàu làm trung tâm liên kết các hộ sản xuất nhỏ lẻ để tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, kiểm soát chất lượng, tiêu chuẩn hóa chất lượng sản phẩm.
Nhiều cơ sở sản xuất nhỏ chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của liên kết; thiếu kiến thức về quản lý chuỗi, phân công lao động theo chuyên môn hóa..., dẫn đến chồng chéo, kém hiệu quả.
Nhiều làng nghề thiếu mặt bằng tập trung, điều kiện hạ tầng yếu (điện, nước, giao thông). Công nghệ lạc hậu khiến khó phối hợp tiêu chuẩn hóa sản phẩm để liên kết theo chuỗi.
Các cơ sở làng nghề thiếu các kênh phân phối ổn định, chưa có thương hiệu chung hoặc sàn giao dịch sản phẩm làng nghề. Sản phẩm đơn lẻ, không đồng bộ về mẫu mã, chất lượng, khó mở rộng liên kết với các nhà sản xuất lớn.
Để phát triển bền vững, các làng nghề cần có giải pháp tổ chức liên kết sản xuất.
Thứ nhất, cần xây dựng mô hình liên kết sản xuất đa chiều, gồm liên kết ngang là liên kết giữa các hộ sản xuất, cơ sở cùng ngành nghề để tạo sức mạnh tập thể, chia sẻ nguồn nguyên liệu, kỹ thuật, thiết bị.
Liên kết dọc là liên kết người sản xuất nguyên liệu - doanh nghiệp chế biến - phân phối - du lịch để hình thành chuỗi giá trị khép kín.
Liên kết vùng là kết nối nhiều làng nghề lân cận có sản phẩm bổ trợ, hình thành cụm làng nghề để tăng sức cạnh tranh.
Cần thành lập và phát huy vai trò của tổ chức đại diện. Thành lập hợp tác xã làng nghề hoặc hiệp hội làng nghề cơ sở để thống nhất tiêu chuẩn chất lượng, mẫu mã và thương hiệu chung.
Qua đó, tổ chức đào tạo quản trị, marketing, thương mại điện tử cho thành viên và làm đầu mối đàm phán hợp đồng lớn, kết nối thị trường trong và ngoài nước.
Cần bảo tồn và lan tỏa giá trị văn hóa trong sản xuất ở làng nghề. Theo đó, lồng ghép yếu tố văn hóa truyền thống (họa tiết, chất liệu, câu chuyện lịch sử) vào thiết kế sản phẩm.
Ghi chép, số hóa tri thức và kỹ thuật chế tác để truyền lại cho thế hệ trẻ. Mời nghệ nhân cao tuổi tham gia đào tạo, hướng dẫn thợ mới.
Cần ứng dụng công nghệ nhưng không làm mất bản sắc. Dùng công nghệ để xử lý nguyên liệu, bảo đảm an toàn và tăng năng suất.
Giữ lại khâu tinh hoa thủ công là khâu thể hiện kỹ thuật và hồn cốt văn hóa. Sử dụng nền tảng số để giới thiệu sản phẩm, kể câu chuyện làng nghề bằng video, ảnh 3D, thực tế ảo (VR).
Rất cấp thiết gắn kết làng nghề với phát triển du lịch cộng đồng. Kết hợp du lịch làng nghề - du lịch trải nghiệm, du khách tham gia làm sản phẩm, nghe kể chuyện về lịch sử làng nghề.
Xây dựng tour liên kết giữa nhiều điểm du lịch văn hóa, sinh thái và làng nghề. Doanh thu từ du lịch quay lại đầu tư cho bảo tồn, phát triển làng nghề.

PHÓ CHỦ TỊCH UBND THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRẦN NAM HƯNG:
Khẳng định giá trị, quảng bá hình ảnh với cộng đồng quốc tế
Làng nghề, ngành nghề nông thôn sẽ vẫn mãi là “linh hồn” của kinh tế nông thôn, tạo việc làm, tăng thu nhập cho hàng triệu lao động, vừa gìn giữ, lan tỏa giá trị văn hóa, bản sắc dân tộc.
Trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, các chính sách của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã đi vào cuộc sống, nhiều ngành nghề, làng nghề được phục hồi; sản phẩm thủ công mỹ nghệ ngày càng đa dạng, khẳng định sức sáng tạo mãnh liệt của các nghệ nhân.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ của thành phố khẳng định được vị thế, thương hiệu trên thị trường trong nước và quốc tế. Nhiều mô hình liên kết giữa sản xuất làng nghề với du lịch đã hình thành, phát triển góp phần phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Đà Nẵng là trung tâm kinh tế, xã hội, văn hóa, du lịch của miền Trung. Địa phương có nhiều tiềm năng to lớn trong phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn.
Có thể kể đến các làng nghề nổi tiếng như Làng đá mỹ nghệ Non Nước, Làng đúc đồng Phước Kiều, Làng gốm Thanh Hà, Làng rau Trà Quế, Làng mộc Kim Bồng, Làng nghề tre dừa Cẩm Thanh…
Các làng nghề không chỉ đem lại sinh kế cho người dân mà còn tạo nên “thương hiệu văn hóa” đặc trưng của thành phố, thu hút khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, khám phá, trải nghiệm.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, ngành nghề, làng nghề của Đà Nẵng vừa có nhiều cơ hội, vừa có nhiều thách thức. Do đó, chúng ta cần nhận diện sớm thời cơ đồng thời đánh giá đúng những khó khăn để có những giải pháp thúc đẩy phát triển bền vững.
Điều quan trọng là khẳng định các làng nghề truyền thống, ngành nghề không chỉ là nguồn lực kinh tế quan trọng mà còn là một phần của di sản văn hóa phi vật thể đóng vai trò cầu nối trong giao lưu, hợp tác và quảng bá hình ảnh Việt Nam với cộng đồng quốc tế.

ÔNG NGUYỄN MINH TIẾN, GIÁM ĐỐC TRUNG TÂM XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI (BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ MÔI TRƯỜNG):
Hỗ trợ xúc tiến thương mại sâu rộng trong thời đại số
Ngành thủ công mỹ nghệ Đà Nẵng còn nhiều dư địa phát triển rộng mở. Điều quan trọng là cần chiến lược xúc tiến thương mại chuyên nghiệp, dài hạn; kết hợp linh hoạt giữa hình thức trực tiếp và trực tuyến; chuẩn bị kỹ lưỡng từ khâu lựa chọn sản phẩm, xây dựng thông điệp truyền thông đến kỹ năng giao tiếp, đàm phán với đối tác quốc tế.
Muốn thực hiện thành công, Nhà nước cần hỗ trợ cơ sở sản xuất thủ công mỹ nghệ tham gia các sàn thương mại điện tử quốc tế như Amazon, Alibaba, Etsy… Xây dựng “gian hàng quốc gia” cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ trên các nền tảng này là bước đi chiến lược tạo dựng thương hiệu chung, tăng niềm tin với khách hàng, mở ra cơ hội tiếp cận trực tiếp tới hàng triệu người tiêu dùng toàn cầu.
Phát triển các hình thức triển lãm số và hội chợ ảo ứng dụng công nghệ 3D, AR, VR để tái hiện không gian làng nghề, giới thiệu sản phẩm chân thực, sinh động, giúp khách hàng quốc tế trải nghiệm sản phẩm từ xa.
Trong thời đại số hiện nay, triển khai các hoạt động marketing qua mạng xã hội, livestream, KOL cùng các công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI) để cá nhân hóa quảng bá theo từng nhóm khách hàng sẽ giúp sản phẩm thủ công mỹ nghệ gia tăng khả năng tiếp cận, tạo lan tỏa mạnh mẽ, đặc biệt với nhóm khách hàng trẻ và có nhu cầu tiêu dùng theo xu hướng mới.
Cùng với đó, nâng cao tính minh bạch, chứng nhận nguồn gốc bằng công nghệ Blockchain, QR code. Đây là công cụ quan trọng để chứng minh tính bền vững, đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường nhập khẩu và góp phần định vị thương hiệu theo hướng xanh, bền vững.
Một số vấn đề quan trọng khác cần lưu ý, đó là đào tạo nhân lực thương mại số gắn với xây dựng hệ thống dữ liệu khách hàng, ứng dụng Big Data để phân tích hành vi tiêu dùng và xu hướng thị trường.
Bên cạnh công nghệ số, vẫn cần duy trì và phát huy hiệu quả các kênh xúc tiến thương mại truyền thống như hội chợ, triển lãm quốc tế, tuần hàng Việt Nam tại nước ngoài.
Hoạt động kết nối giao thương trực tiếp cần được tổ chức bài bản hơn, đặc biệt tại các thị trường trọng điểm như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản.
Nâng cao năng lực cho nghệ nhân thông qua hoạt động tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về marketing quốc tế để tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển lâu dài.

PGS.TS ĐẶNG MAI ANH, NGUYÊN PHÓ HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP (HÀ NỘI):
Đổi mới đào tạo, truyền nghề thích ứng xu thế
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ là kết tinh của bàn tay khéo léo, sáng tạo trí tuệ của các nghệ nhân và mang trong mình những giá trị văn hóa dân tộc, mỹ thuật, tri thức, kinh tế... Làng nghề với những sản phẩm thủ công mỹ nghệ đóng góp cho phát triển kinh tế nông thôn, rất cần bảo tồn, phát triển làng nghề trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay. Thành phố Đà Nẵng cần quan tâm câu chuyện giữ nghề bằng đào tạo, truyền nghề.
Truyền nghề ở các làng nghề đến nay vẫn theo cách truyền tri thức, kinh nghiệm giữa người đời trước với người đời sau. Cần sự tiếp cận những vấn đề mới của công nghệ, tư duy sản xuất, chế tác, thị trường, nguyên liệu…
Nhiều làng nghề truyền thống đang thiếu lớp nghệ nhân kế cận, cần có đội ngũ tay nghề cao để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Truyền dạy nghề theo kiểu truyền thống tồn tại những hạn chế như tri thức nghề chưa hệ thống đầy đủ; phương thức thực hành không còn thích nghi với sự phát triển khoa học; thiếu những kiến thức kết nối thị trường trong và ngoài nước; không kết nối thành mạng liên kết trong kinh doanh.
Trước thực trạng đó, đào tạo, truyền dạy hiện nay cần có những hình thức phù hợp để tạo hiệu quả trong bảo tồn và phát triển làng nghề. Trong thời đại công nghệ số, cần ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong truyền dạy nghề gắn với phát huy được bản sắc, thế mạnh của hàng thủ công mỹ nghệ, tạo động lực phát triển bền vững.
Rất cần thiết đào tạo, đào tạo lại, đào tạo nâng cao kỹ năng nghề. Bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin cho người lao động trong làng nghề, nhất là quản lý, sản xuất, thiết kế, quảng bá giao dịch thông tin…
Đào tạo, truyền nghề là để tiếp tục sự trường tồn của nghề truyền thống và cũng chính để bồi đắp cho làng nghề những giá trị văn hóa, mỹ thuật, thương mại ngày càng cao. Phương pháp liên kết đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn được xem là thích hợp nhằm tạo ra những thế hệ nghệ nhân làng nghề vừa có tay nghề cao vừa có thẩm mỹ phù hợp với thị hiếu của xã hội hiện nay.
Cần khuyến khích liên kết giữa các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và hiệp hội để phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề. Với tư duy khoa học thẩm mỹ có tính hàn lâm, các trường nghệ thuật sẽ truyền đạt, giúp người học hoàn thiện tư duy cái đẹp. Ví dụ như sản phẩm thủ công mỹ nghệ cần hài hòa, gắn bó với một môi trường cụ thể; sản phẩm cần có kích cỡ, hình khối, kiểu dáng, màu sắc phù hợp với không gian cụ thể của làng nghề.
Đào tạo, truyền dạy và đổi mới, sáng tạo trong thiết kế mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ là những khâu quan trọng để mỗi làng nghề truyền thống ở thành phố Đà Nẵng thực sự nâng cao tiềm năng cả về chất và lượng, có vị trí xứng đáng trên các thị trường quốc tế, góp phần tăng nguồn lực kinh tế, góp phần bảo tồn, phát huy cũng như quảng bá các giá trị văn hóa.
Nguồn: https://baodanang.vn/khang-dinh-thuong-hieu-van-hoa-lang-nghe-3305102.html
Bình luận (0)