Ngay sau khi Đảng bộ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành lập, những người cộng sản Đà Nẵng đã nỗ lực triển khai các hoạt động cách mạng, khơi dậy tinh thần yêu nước trong Nhân dân. Các cuộc rải truyền đơn, treo cờ đỏ và biểu tình nhân dịp kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động (1-5) tại những địa điểm nổi bật như rạp chiếu bóng Nguyễn Khoa Lệ và Bót cò Đà Nẵng tạo ra tiếng vang lớn. Những hoạt động này không chỉ thu hút sự chú ý của quần chúng mà còn đánh dấu bước khởi đầu mạnh mẽ trong phong trào cách mạng ở Đà Nẵng.
Từ đó, hàng chục, rồi hàng trăm đảng viên cộng sản đã xuất hiện tại Đà Nẵng. Họ tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng yêu nước, đặc biệt là qua việc học tập tác phẩm Đường Kách mệnh của Nguyễn Ái Quốc.
Những người cộng sản Đà Nẵng và Quảng Nam, bất chấp khó khăn, gian khổ và hiểm nguy, đã kiên trì tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho Nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, các phong trào cách mạng đã phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là trong các năm 1930-1931 ủng hộ phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh, phong trào đòi dân sinh - dân chủ (1936-1939), và cao trào cách mạng (1939-1945), góp phần quan trọng vào thành công của cuộc khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, Đà Nẵng (cùng với Quảng Nam) đã trở thành chiến trường trọng yếu, là địa đầu bảo vệ vùng tự do Khu V. Tại đây, quân và dân Đà Nẵng đã góp phần quan trọng cùng toàn dân tộc đánh bại thực dân Pháp xâm lược.
Sau thất bại nặng nề, thực dân Pháp phải rút quân về nước, mang lại hòa bình cho đất nước. Tuy nhiên, ngay sau đó, âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ đã bắt đầu từ lâu, và trong bối cảnh này, Mỹ đã hất cẳng Pháp, phá hoại Hiệp định Genève, đồng thời trực tiếp xâm lược nước ta.
Bằng chính sách "tố cộng" nhằm tiêu diệt lực lượng cộng sản, đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã thẳng tay đàn áp, gây ra những vụ tàn sát dã man, với mục đích tiêu diệt các lực lượng cách mạng và dập tắt ý chí chiến đấu vì độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta.
Dù đối mặt với những khó khăn, ác liệt trong cuộc chiến tranh, Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng đã cùng nhân dân miền Nam kiên trì, bền bỉ đấu tranh chống lại kẻ thù, đòi hỏi "hiệp thương", "tổng tuyển cử" để thống nhất đất nước, và phản đối "trưng cầu dân ý" mà chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện.
Từ khi có Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng soi đường, Đảng bộ ta đã từng bước lãnh đạo Nhân dân đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, làm chủ thành phố 76 ngày đêm năm 1964, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị ở các vùng đô thị; góp phần đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
Bị thất bại nặng nề, giữa năm 1965, đế quốc Mỹ phải thay đổi chiến lược chiến tranh, ồ ạt đưa quân Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh cục bộ nhằm chống lại Nhân dân ta. Trước tình hình căng thẳng đó, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Khu ủy V, Thành ủy Đà Nẵng đã kiên quyết lãnh đạo các lực lượng vũ trang và Nhân dân xác định tinh thần quyết tâm đánh Mỹ và giành chiến thắng. Một trong những bước đi quan trọng là việc xây dựng các “vành đai diệt Mỹ” ở Hòa Vang và nhiều địa phương khác, với những cách đánh sáng tạo, hiệu quả.
Ngày 8/3/1965, quân viễn chinh Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng. Nhân dân Đà Nẵng đã tổ chức tuần lễ tự trọng dân tộc và xây dựng vành đai diệt Mỹ ở Hòa Vang, hình thành thế bao vây, tiêu diệt địch.
Lính Mỹ di chuyển về căn cứ sau khi đổ bộ vào Đà Nẵng. (Ảnh do Bảo tàng Đà Nẵng cung cấp)
Từ năm 1969, đế quốc Mỹ thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh, vừa từng bước rút quân Mỹ, vừa ra sức củng cố, tăng cường ngụy quân, ngụy quyền, phản công và tiến công ta quyết liệt. Chúng tập trung lực lượng “bình định” nông thôn, đồng thời củng cố vị trí của chúng ở thành thị mà về thực chất là “bình định” vùng tạm chiếm bằng cách tăng cường kìm kẹp, đàn áp, bóc lột nhân dân thành phố.
Trước tình thế đó, quân và dân Đà Nẵng đã kiên cường “trụ bám”, xây dựng và phát triển phong trào cách mạng ở nội thành và vùng ven, tiến tới phối hợp với toàn miền Nam tiến hành cuộc tiến công chiến lược năm 1972, buộc chúng phải ký kết Hiệp định Paris, rút quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc ra khỏi miền Nam.
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết vào ngày 27/1/1973, Đảng bộ và Nhân dân Đà Nẵng đã nhanh chóng nắm bắt tình hình mới, tận dụng thời cơ, tiếp tục phát triển thực lực cách mạng và tạo ra thế và lực mới để cùng cả nước chủ động kết thúc chiến tranh.
Từ cuối năm 1974, khi tình hình cách mạng miền Nam có dấu hiệu thuận lợi, Đảng bộ và Nhân dân thành phố đã phát huy phương châm "hai chân, ba mũi giáp công", đẩy mạnh cuộc đấu tranh cả về quân sự và chính trị.
Tháng 7/1974, ta đã mở chiến dịch giải phóng Nông Sơn - Tiên Phước, tiêu diệt chi khu quận lỵ Thượng Đức. Phối hợp với chiến trường chung, vào đêm 19 rạng sáng 20/7/1974, ta tiến hành tấn công và pháo kích vào sân bay Đà Nẵng, các vị trí của địch tại các phường An Khê, Hòa Cường, núi Phước Tường, ngã tư Hòa Cầm...
Đến cuối năm 1974, tình hình chiến trường cho thấy rõ ràng rằng, ta đã có đủ điều kiện để tổ chức một cuộc tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng quê hương đất Quảng và thành phố Đà Nẵng thân yêu.
Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10/1974 và đầu năm 1975 đã đưa ra quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam, đánh bại chiến tranh thực dân mới của đế quốc Mỹ thông qua cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975.
Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, vào ngày 10/3/1975, quân và dân ta đã mở chiến dịch Tây Nguyên, và đến ngày 24/3, đã giải phóng hoàn toàn vùng Tây Nguyên. Ngày 19/3, tỉnh Quảng Trị được giải phóng, và ngày 26/3, thành phố Huế cùng tỉnh Thừa Thiên Huế đã được giải phóng.
Vào ngày 22/3, trước những thắng lợi liên tiếp trên chiến trường Tây Nguyên và Trị Thiên Huế, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã chỉ thị Khu ủy và Quân khu V: “Địch có khả năng rút bỏ Huế và Đà Nẵng, do đó cần chuẩn bị sẵn sàng để đánh Đà Nẵng theo phương án đã đề ra”.
Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu
Ngày 23/3, Thường vụ Khu ủy và Quân khu V họp và đưa ra quyết tâm: “Động viên toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân trong khu phấn đấu giải phóng hoàn toàn khu V trong thời gian ngắn nhất”. Chiến trường chính được xác định là thành phố, thị xã, với mục tiêu trọng yếu là thành phố Đà Nẵng.
Ngày 24/3, Đặc Khu ủy Quảng Đà tổ chức cuộc họp quan trọng để triển khai kế hoạch giải phóng Đà Nẵng. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Quảng Đà do đồng chí Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh và đồng chí Chu Huy Mân làm Chính ủy để chỉ huy cuộc tấn công giải phóng Đà Nẵng.
Tối ngày 27/3, đồng chí Võ Chí Công, Bí thư Khu ủy V, làm việc với Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà, nhấn mạnh: Phải giải phóng Đà Nẵng bằng hai lực lượng chủ yếu: quân sự và nổi dậy của quần chúng, với quyết tâm hoàn thành việc giải phóng thành phố chậm nhất vào ngày 3/4/1975.
Xe tăng cùng bộ binh Sư đoàn 2 quân giải phóng tiến vào trung tâm thành phố Đà Nẵng năm 1975. Ảnh: Thông tấn xã Giải phóng
Lực lượng tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Đà Nẵng, bao gồm cả lực lượng Trung ương và địa phương, gồm: Quân đoàn 2 với các Sư đoàn 304, 325; lực lượng Quân khu V gồm Sư đoàn 2 và Lữ đoàn 52; lực lượng địa phương bao gồm Trung đoàn 96 và Trung đoàn 97 của Mặt trận 4 Quảng Đà cùng các lực lượng quân sự và chính trị ở cả nội và ngoại thành.
Chiến dịch giải phóng Quảng Đà bắt đầu từ 5 giờ sáng ngày 28/3/1975 khi pháo binh của ta nổ súng vào các mục tiêu như Bà Rén, Vĩnh Điện, Hòn Bằng, và vào lúc 8 giờ sáng, pháo binh tiếp tục khống chế sân bay và hải cảng Đà Nẵng. Các lực lượng bộ binh và thiết giáp lập tức bắt đầu tấn công vào các huyện, thị và vùng ven thành phố. Nhờ sự chuẩn bị kỹ lưỡng, các ủy ban khởi nghĩa tại các huyện, thị ở Quảng Đà đã đồng loạt phát động nhân dân nổi dậy, thực hiện mệnh lệnh khởi nghĩa của Đặc Khu ủy Quảng Đà.
Ngày 28/3/1975, quân ta giải phóng Duy Xuyên. Sáng ngày 29/3, các huyện Đại Lộc, Hòa Vang, Điện Bàn và thị xã Hội An cũng được giải phóng.
Nhân dân Đà Nẵng đón mừng quân Giải phóng tiến vào thành phố ngày 29/3/1975. Ảnh: Bảo tàng Đà Nẵng
Tại Hòa Vang, từ 15 giờ ngày 27/3, Chi bộ Đảng xã Hòa Phước thuộc Khu III Hòa Vang đã tổ chức chiến dịch huy động quần chúng kéo vào các đồn địch để xin lánh nạn, kêu khóc và hù dọa lính địch. Du kích đã sử dụng loa kêu gọi ngụy quân, tề đầu hàng và tiến hành nổ súng thị uy. Địch hoảng loạn rút khỏi một số chốt điểm nhỏ, co cụm về các chốt điểm lớn.
Thừa thắng, quần chúng nổi dậy tiêu diệt các mâm tề ở địa phương, chiếm giữ các cứ điểm Trung đoàn 51, Miếu Bông và giải phóng toàn xã. Trong khi đó, Sư đoàn 3 ngụy từ Quế Sơn xuống chiếm cầu Tứ Câu, dùng hỏa lực để dọn đường cho quân tháo chạy về Đà Nẵng.
Chi bộ Đảng xã Hòa Phước đã lãnh đạo lực lượng du kích và một số hàng binh địch chiến đấu quyết liệt. Cuộc chiến đấu tại cửa ngõ thành phố Đà Nẵng những ngày cuối của chiến trường Quảng Đà rất ác liệt. Tại Khu II, lực lượng du kích các xã Hòa Bình, Hòa Khương, Hòa Hưng - trong đó du kích Hòa Bình là chủ công - đã bao vây, bức hàng quân ngụy ở quận lỵ.
Lúc 14 giờ ngày 28/3, ta đã đột nhập vào quận lỵ và bắt được tên quận phó. Cũng tại quận lỵ Hòa Vang, du kích xã Hòa Thọ là chủ công, cùng du kích các xã khác tổ chức bao vây, tiến công địch. Vào lúc 8 giờ sáng ngày 29/3, bộ đội địa phương Khu II và du kích mật xã Hòa Châu đã tấn công trung đội nghĩa quân gác Cầu Đỏ. Cùng lúc, quân ta tiến vào thành phố và cùng đồng bào nổi dậy, chiếm quận lỵ Hòa Vang vào lúc 14 giờ cùng ngày.
Rạng sáng ngày 29/3/1975, tại số nhà 245 Phan Châu Trinh, Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà phát lệnh khởi nghĩa; các ủy ban khởi nghĩa trong thành phố ngay lập tức đưa quần chúng vào cuộc, tấn công quân ngụy và kêu gọi binh sĩ ngụy hạ vũ khí, trở về nhà, không chống cự và ra hàng cách mạng.
Phút gặp gỡ đầu tiên giữa Quân Giải phóng với các lực lượng nổi dậy trong thành phố Đà Nẵng chiều 29-3-1975. (Ảnh lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng)
Lực lượng biệt động và tự vệ thành phố triển khai kế hoạch chiếm các vị trí chiến lược, đặc biệt là nhà máy điện để bảo vệ dòng điện và ánh sáng, giải phóng các nhà lao, ngăn chặn địch ám hại đồng chí, đồng bào ta. Từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa, lực lượng khởi nghĩa đã chiếm các trụ sở quan trọng của ngụy quyền, như: trụ sở quận Nhất, quân vụ thị trấn, Đài phát thanh, Tòa Thị chính.
Chiều 29/3/1975, bộ đội chủ lực của ta, với sự hỗ trợ của xe tăng và trọng pháo đã vượt cầu Trịnh Minh Thế (nay là cầu Nguyễn Văn Trỗi) và tiến vào chiếm lĩnh căn cứ Sơn Trà của địch. Đến 18 giờ cùng ngày, điện sáng lên khắp thành phố, báo hiệu một tin vui đại thắng: Đà Nẵng đã được giải phóng! (Tuy nhiên, quần đảo Hoàng Sa vẫn chưa được giải phóng và vẫn bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép).
Ngày 30/3, Ủy ban quân quản của thành phố và các cấp chính quyền được thành lập. Đảng bộ và Nhân dân thành phố nhanh chóng ổn định đời sống, xây dựng chính quyền cách mạng và chuẩn bị cho việc giải phóng Sài Gòn và các tỉnh miền Nam còn lại.
Cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cắm trên Tòa Thị chính Đà Nẵng ngày 29/3/1975. Ảnh: Bảo tàng Đà Nẵng
Ngày 7/5/1975, tại sân vận động Chi Lăng, nhân dân thành phố Đà Nẵng đã tổ chức mít tinh mừng thành phố được giải phóng. Ngày 15/5, thành phố đã tưng bừng trong đêm pháo hoa mừng miền Nam giải phóng, đất nước hòa bình và thống nhất.
CỔNG TTĐT THÀNH PHỐ
Nguồn: https://www.danang.gov.vn/web/guest/chinh-quyen/chi-tiet?id=63020&_c=3
Bình luận (0)