Đối với đồng bào Dao Đỏ, giấy bản thường được sử dụng trong tâm linh, vào các dịp cầu an, lễ, Tết. Giấy bản có màu vàng nhạt, dai và bền, thường dùng để cắt giấy tiền, để viết sớ trong các lễ cúng, đặc biệt là lễ cấp sắc, lễ tang…, dùng để đóng thành quyển viết chữ Nho, chữ Hán, bởi giấy dai và thấm mực nên chữ viết không bao giờ phai.
Chị Hoàng Mùi Lai, xóm Lũng Ót, xã Ca Thành, hiện vẫn duy trì làm nghề chia sẻ: Nghề làm giấy bản được người dân chúng tôi rất trân trọng, hầu như làm cả năm, nhiều nhất là lúc nông nhàn và dịp Tết vì nhu cầu tăng cao. Giấy chúng tôi làm ra khi đốt (hóa vàng) rất ít tàn hơn so với giấy vàng mã thông thường. Với phương pháp sản xuất thủ công và không sử dụng hóa chất nên giấy bản thân thiện với môi trường, không gây hại đến sức khỏe người sử dụng, do đó sản phẩm làm ra được tiêu thụ rộng rãi trên địa bàn tỉnh. Để làm được những thếp giấy bản đạt chất lượng phải thực hiện nhiều công đoạn thủ công vô cùng công phu và không sử dụng bất kỳ loại hóa chất nào. Nguyên liệu để tạo nên giấy bản hoàn toàn tự nhiên bao gồm trúc non, thân cây kêu (tiếng Dao Đỏ), vôi và nước. Theo kinh nghiệm, từ tháng 3 - 4 âm lịch là thời điểm người dân tích trữ nguyên liệu, đảm bảo cho 1 năm sản xuất, bởi nếu làm bằng trúc già chất lượng giấy sẽ không đảm bảo.
Thông thường, trúc non được cắt thành từng đoạn dài khoảng 1 m, chẻ 4 miếng rồi bó lại ngâm với nước vôi. Trúc phải ngâm nước vôi ít nhất 2 tháng mới được vớt ra ngâm trong nước sạch thêm 2 tháng nữa là sẽ mềm nhũn. Sau đó, vớt trúc lên, đập dập, vắt kiệt nước, cho vào máy giã và đặt xuống bể đựng sẵn nước cây kêu đã tan. Nước kêu khoắng với bột trúc tạo thành một loại dung dịch sóng sánh màu vàng nhạt. Dùng khuôn tráng giấy làm bằng vải nhúng xuống bể, lắc mạnh để dung dịch này trải đều trên khuôn tạo thành từng nẹp giấy mỏng. Cứ thế, lớp nọ xếp lên lớp kia, ép thủ công cho kiệt nước rồi mang ra phơi ở nơi râm mát, hóng gió cho khô. Để có những tờ giấy bản vuông vắn, phải xếp các tấm giấy thành thếp khoảng 15 - 20 tờ, khổ rộng 25 x 80 cm. Giấy làm ra phải mỏng, mịn, dai và có màu vàng nhạt đặc trưng, khi soi dưới ánh nắng sẽ thấy rõ những sợi tơ và cảm nhận được hương thơm nhẹ nhàng của cây rừng, một nét riêng biệt không loại giấy công nghiệp nào có được.
Anh Hoàng Chàn Kinh, Trưởng xóm Lũng Ót, xã Ca Thành cho biết: Xóm Lũng Ót có 43 hộ dân, trong đó 25 hộ còn giữ nghề làm giấy bản truyền thống. Nếu như ở miền xuôi, nhu cầu sử dụng giấy bản không còn phổ biến, thì tại Cao Bằng - nơi sinh sống của nhiều dân tộc như: Tày, Nùng, Mông, Dao…, giấy bản vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa và tín ngưỡng. Vì vậy, người dân trong xóm luôn duy trì nghề làm giấy bản với tinh thần trách nhiệm cao, ngày đêm miệt mài sản xuất để tạo ra những sản phẩm chất lượng nhất. Những tờ giấy không đạt yêu cầu sẽ không được đưa ra thị trường, bởi điều đó không chỉ ảnh hưởng đến uy tín cá nhân mà còn làm tổn hại đến hình ảnh chung của cả cộng đồng. Đây là minh chứng cho sự coi trọng giá trị văn hóa truyền thống và tinh thần đoàn kết của người Dao, nơi mỗi sản phẩm đều mang theo niềm tự hào dân tộc và sự trân trọng đối với di sản cha ông để lại. Nhờ gìn giữ và phát triển nghề truyền thống, nhiều hộ gia đình trong xóm có thêm nguồn thu nhập ổn định từ 10 - 20 triệu đồng/năm, góp phần cải thiện đời sống và phát triển kinh tế từ chính bàn tay lao động của mình.
Hiện nay, nghề làm giấy bản vẫn được cộng đồng người Dao lưu truyền, song số người còn biết và gắn bó với nghề không nhiều. Để bảo tồn và phát triển nghề truyền thống này, chính quyền địa phương cần có giải pháp cụ thể như gắn nghề với phát triển du lịch, mở rộng thị trường tiêu thụ, tạo đầu ra ổn định cho sản phẩm. Đây không chỉ là hướng đi bền vững về kinh tế mà còn góp phần gìn giữ những giá trị văn hóa quý báu của dân tộc.
Nguồn: https://baocaobang.vn/nghe-lam-giay-ban-truyen-thong-cua-nguoi-dao-do-3180869.html
Bình luận (0)