Để giải quyết đúng quy luật của chiến tranh là “mạnh được, yếu thua”, dân tộc ta đã khai thác triệt để, vận dụng sáng tạo, phát huy tối đa các yếu tố “lực, thế, thời, mưu” nhằm thực hiện “lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều”. Sức mạnh để đánh thắng kẻ thù là sức mạnh của toàn dân tộc, tiến hành chiến tranh nhân dân; kết hợp chặt chẽ giữa sử dụng, phát huy vai trò của lực lượng vũ trang (LLVT) địa phương trên từng địa bàn với lực lượng cơ động của quân chủ lực trong tác chiến. Đó là phương thức và nghệ thuật quân sự độc đáo của Việt Nam.

Quân địa phương tạo thế cho quân triều đình  

Thực tiễn, trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ 2 (1075-1077), nhà Lý đã tổ chức LLVT gồm 3 thứ quân: Cấm quân là lực lượng thường trực của triều đình; sương quân là lực lượng đóng ở các châu, lộ; thổ binh là quân của các vương hầu, quý tộc, quân của các tù trưởng miền núi và dân binh ở các xã, làng, bản, thôn, xóm. Với cách tổ chức lực lượng như vậy đã hình thành 2 lực lượng là quân chủ lực và quân địa phương.

Thổ binh, dân binh và nhân dân ở các làng, xã cùng với một bộ phận quân chủ lực triều đình làm nòng cốt tổ chức một số tuyến phòng ngự để ngăn chặn, kìm giữ các hướng tiến công của địch từ biên giới, tạo thế thuận lợi cho quân chủ lực của triều đình chủ động tác chiến. Cùng với lực lượng chủ lực mạnh chặn đánh địch trên phòng tuyến chính sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt còn sử dụng lực lượng dân binh, thổ binh và nhân dân địa phương liên tục đánh vào các đồn trại và phía sau đội hình cơ động của quân địch, triệt đường lương thảo, đặc biệt là chặn đánh đạo quân thủy của Dương Tùng Tiên, phá thế hội sư của địch, làm cho quân địch nhanh chóng suy yếu, rơi vào khốn quẫn; sử dụng lực lượng của các lộ, phủ... vào tác chiến đánh địch trên từng khu vực, từng địa phương đã tạo thế, tạo điều kiện, thời cơ cho quân cơ động của triều đình tiến hành thắng lợi các trận đánh quan trọng, sau đó chuyển sang phản công giành thắng lợi quyết định, quét sạch quân Tống xâm lược.

Thời Trần, trong 3 lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên-Mông (1258, 1285, 1288) cũng tổ chức LLVT 3 thứ quân: Quân triều đình, quân các lộ, hương binh và thổ binh. LLVT ở các châu, lộ, hương binh và thổ binh ở các làng, xã lên đến hàng chục vạn người, thực hiện đánh địch rộng khắp với nghệ thuật “lấy đoản binh chống trường trận”. Bằng việc phát huy vai trò của chiến tranh nhân dân, tránh thế mạnh ban đầu của địch, nhà Trần không sử dụng quân chủ lực triều đình đương đầu với địch mà sử dụng quân của các phủ, lộ, làng, bản cùng với nhân dân thực hiện kế "thanh dã”, đẩy mạnh tác chiến rộng khắp, ngăn chặn, kìm giữ địch trên từng địa bàn, trên các hướng; làm cho quân địch luôn phải căng sức đối phó ở khắp nơi, đi đến đâu cũng bị đánh, dẫn đến ngày càng bị tiêu hao lực lượng, phương tiện, tinh thần mệt mỏi, rệu rã và bị triệt đường lương thảo. Từ thế trận và thời cơ có lợi do lực lượng của các lộ, phủ, làng, xã tạo ra, quân chủ lực triều đình đã tổ chức phản công, tiến công, đánh tiêu diệt lớn, đánh bại quân Nguyên-Mông xâm lược.

Lực lượng tự vệ Hà Nội chiến đấu bảo vệ mục tiêu trong Chiến dịch Phòng không Hà Nội-Hải Phòng, tháng 12-1972. Ảnh tư liệu

Đây là những kinh nghiệm quý giá, bài học lịch sử có giá trị vững bền giúp soi sáng lý luận và thực tiễn sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) hôm nay và mai sau. Đặc biệt, nghệ thuật sử dụng LLVT địa phương trong chiến tranh BVTQ là vấn đề mang tính phổ biến, khách quan, là quy luật căn bản để huy động toàn dân đánh giặc, tạo ra sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, nhằm giữ vững địa bàn từng địa phương, góp phần đánh bại địch xâm lược.

Tác chiến rộng khắp, tạo sức mạnh của chiến tranh nhân dân

Trong chiến tranh giải phóng và BVTQ, địa phương các cấp có vai trò đặc biệt quan trọng, là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối quân sự, quốc phòng (QS, QP) của Đảng, thực hiện phương thức chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, trong đó LLVT địa phương làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Từ đó, tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần quyết định thắng lợi.

Thực tiễn trong kháng chiến chống thực dân Pháp, để đánh bại cuộc hành binh của địch lên Chiến khu Việt Bắc (Quân khu Cao Bắc Lạng), bảo vệ cơ quan lãnh đạo kháng chiến, ta đã sử dụng LLVT địa phương (tỉnh, huyện, xã) là bộ đội địa phương, dân quân, du kích, cùng các đại đội chủ lực phân tán bám sát, đánh địch liên tục cả ở nơi chúng trú quân và trên đường cơ động, đồng thời làm nhiệm vụ đánh cắt giao thông, triệt đường tiếp tế lương thực, đạn dược của địch... làm thất bại kế hoạch bao vây Việt Bắc của chúng.

Các lực lượng tham gia diễn tập phòng thủ dân sự ứng phó với siêu bão và tìm kiếm cứu nạn tại TP Hải Phòng, tháng 7-2023. Ảnh: QUANG THIỆN

Qua kinh nghiệm sử dụng LLVT địa phương trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cho thấy: Sử dụng bộ đội địa phương, du kích, tự vệ và nhân dân các địa phương dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền địa phương và chỉ huy của cơ quan quân sự địa phương, phối hợp cùng một bộ phận chủ lực tác chiến phòng thủ, phòng ngự, tiến công địch rộng khắp và làm các nhiệm vụ khác đã đem lại hiệu quả rất cao. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, vừa ngăn chặn, bao vây, tiêu hao, giam chân địch, buộc địch phải sa lầy, đồng thời tạo điều kiện phát triển chủ lực, các địa phương và cả nước có thêm thời gian để chuẩn bị tác chiến hiệu quả.

Tổng kết 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp cho thấy, bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ, du kích đã tiêu diệt 23,1 vạn quân địch (chiếm 46,4% tổng số lực lượng địch bị tiêu diệt); làm tan rã hơn 20 vạn tên; đặc biệt đã kiềm chế, phân tán trên 90% tổng số lực lượng địch trên toàn chiến trường.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ở miền Nam, giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, trong điều kiện quân chủ lực của ta ít, để tạo thế đứng chân cho cách mạng, ta đã chỉ đạo phát triển LLVT địa phương ở các tỉnh, huyện, xã, thôn, ấp; sử dụng bộ đội địa phương, dân quân, du kích và nhân dân kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, khôi phục và mở rộng các căn cứ chiến đấu, các chiến khu.

Cùng với từng bước xây dựng bộ đội chủ lực, ở Khu 5 và Quân khu Sài Gòn-Gia Định, các địa phương như: Đà Nẵng, Quảng Nam, Củ Chi, Bến Cát, Tây Ninh, Bình Phước..., bộ đội địa phương, dân quân, du kích và nhân dân đã rào làng, xây dựng các làng, xã chiến đấu, hệ thống hầm ngầm địa đạo, vành đai diệt Mỹ, tạo ra thế trận vây hãm địch. Bên cạnh đó, bộ đội địa phương, dân quân, du kích phối hợp với bộ đội chủ lực đứng chân trên các căn cứ, chiến khu tiến hành nhiều hoạt động tác chiến: Tập kích, phục kích, đánh cắt giao thông, tổ chức nhiều trận đánh địch hành quân càn quét vào các chiến khu: C, D, Củ Chi, căn cứ Dương Minh Châu...

Với sự hỗ trợ đắc lực của bộ đội chủ lực Miền cùng hoạt động đấu tranh chính trị của nhân dân; thực hiện phương châm “một tấc không đi, một ly không rời”, lực lượng bộ đội địa phương, dân quân, du kích đã kiên cường bám trụ, tiến công địch rộng khắp, từ đó đánh bại chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của địch. Đặc biệt, LLVT địa phương đã cùng với bộ đội chủ lực đánh bại các cuộc hành binh “tìm diệt” của quân Mỹ-ngụy, bảo vệ các căn cứ kháng chiến. Thực tiễn mùa khô năm 1967, ở miền Nam, Mỹ có hơn 50 vạn quân, nhưng chỉ tập trung vào đòn tiến công chiến lược không quá 5 vạn, vì bị các hoạt động tác chiến của LLVT địa phương đánh tiêu hao, chia cắt, buộc phải phân tán lực lượng để đối phó.

Như vậy, bằng các hoạt động tác chiến rộng khắp, hiệu quả của LLVT địa phương và nhân dân miền Nam trong thời kỳ đầu, ta đã giữ vững các căn cứ kháng chiến, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển bộ đội chủ lực, góp phần quan trọng và làm cơ sở để đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi cuối cùng.

Từ kinh nghiệm, truyền thống, nghệ thuật sử dụng LLVT địa phương trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của ông cha ta; xuất phát từ đối tượng tác chiến trong chiến tranh BVTQ; đồng thời, căn cứ vào thực tiễn yêu cầu nhiệm vụ QS, QP hiện nay, có thể khẳng định: LLVT địa phương có vai trò vô cùng quan trọng; sử dụng LLVT địa phương là một nội dung cơ bản của nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta đã chứng minh: Sức mạnh để một dân tộc nhỏ có thể đánh thắng kẻ thù xâm lược có tiềm lực và sức mạnh quân sự hơn gấp nhiều lần chính là sức mạnh của chiến tranh nhân dân, huy động lực lượng toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ tác chiến của LLVT địa phương với tác chiến của lực lượng chủ lực cơ động bằng thế “nhân trận”, thực hiện “làng giữ làng, xã giữ xã, huyện giữ huyện, tỉnh giữ tỉnh”. Việc sử dụng và phát huy hiệu quả LLVT địa phương cùng với lực lượng cơ động của bộ, quân khu đã tạo ra sức mạnh chiến thắng. Đây là kinh nghiệm, truyền thống và đã trở thành phương thức, nét nghệ thuật quân sự độc đáo trong chiến tranh nhân dân giành độc lập dân tộc, BVTQ của Việt Nam.

Phòng thủ khu vực kịp thời ứng phó mọi tình huống

Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học-công nghệ, vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự ngày càng hiện đại; cùng với đó là sự thay đổi về tổ chức biên chế của LLVT, thay đổi hình thái chiến tranh và phương thức tác chiến... đặt ra yêu cầu rất cao đối với nhiệm vụ BVTQ. Cùng với đó, cấp tỉnh và xã ở nước ta sau sáp nhập có địa bàn rộng, dân số đông; khối lượng công việc nhiều thêm và yêu cầu nhiệm vụ đòi hỏi ngày càng cao, ngay cả trong thời bình.

Vì thế, việc Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Ban chỉ huy Phòng thủ khu vực (BCHPTKV) khi giải thể ban CHQS cấp huyện, thực hiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp (tỉnh, xã) để phù hợp với tình hình và yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới là rất đúng đắn, sáng suốt. BCHPTKV không phải là một cấp hành chính mà là đơn vị trực thuộc bộ CHQS cấp tỉnh, thực hiện nhiệm vụ QS, QP, đặc biệt khi có tình huống xảy ra.

Dân quân tự vệ tham gia diễn tập khu vực phòng thủ trên địa bàn quận Long Biên (Hà Nội), tháng 7-2023. Ảnh: TUẤN HUY 

Phòng thủ khu vực là một nội dung trọng yếu trong chiến lược quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Khi không còn ban CHQS cấp huyện, đồng thời cấp tỉnh và xã sáp nhập có địa bàn, dân số lớn hơn trước nhiều thì BCHPTKV chính là “cánh tay nối dài” của Bộ CHQS tỉnh-cơ quan đầu mối để phối hợp, chỉ huy LLVT và hiệp đồng với các lực lượng như công an, quân sự, dân quân tự vệ, biên phòng, y tế... trong tổ chức tác chiến phòng thủ khu vực (bao gồm địa bàn nhiều xã, phường); bảo đảm kết nối giữa cấp tỉnh với cấp xã trong tổ chức lực lượng và thực hiện nhiệm vụ phòng thủ; tránh bỏ trống địa bàn, không để lỗ hổng trong quản lý LLVT địa phương.

Thực tế cho thấy, chiến tranh hiện đại có thể xảy ra nhanh, bất ngờ, cả truyền thống và phi truyền thống (như chiến tranh mạng, khủng bố, bạo loạn lật đổ...); nhiệm vụ phòng thủ dân sự như ứng phó với thảm họa, thiên tai cũng rất phức tạp, khó lường. Do đó, mọi khu vực đều cần có phương án phòng thủ sẵn sàng, chỉ huy thống nhất các lực lượng để ứng phó được ngay với mọi tình huống. Nếu không có BCHPTKV thì rất khó chủ động chuẩn bị về mọi mặt, nhất là phương án phòng thủ khu vực; càng khó trong công tác phối hợp, hiệp đồng, chỉ huy khi có tình huống quốc phòng, an ninh trong khu vực; khó điều động lực lượng từ xã này sang xã khác để kịp thời xử trí tình huống...

Xây dựng LLVT địa phương và phát huy vai trò của BCHPTKV là vấn đề hệ trọng, chiến lược. Vì thế, cần nghiên cứu kỹ lưỡng, tiếp tục hoàn thiện tổ chức, biên chế, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động..., bảo đảm xây dựng các BCHPTKV nói riêng, LLVT địa phương nói chung thực sự vững mạnh, các khu vực phòng thủ và nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân ngày càng vững chắc, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới.

Đại tá, TS NGUYỄN TRUNG KIÊN, Giảng viên Học viện Quốc phòng

*Mời  bạn đọc vào chuyên mục Quốc phòng an ninh xem các tin, bài liên quan. 

Nguồn: https://www.qdnd.vn/quoc-phong-an-ninh/xay-dung-quan-doi/nghe-thuat-to-chuc-va-su-dung-luc-luong-vu-trang-dia-phuong-834871