![]() |
Thưởng trà cũng là một nghệ thuật. |
Nâng chén trà sóng sánh có sợi khói nhẹ tênh mà như muốn đằm lại cái dư vị đồng làng đầy cốm thơm tháng Mười. Để “tao nhân mặc khách” đưa chén trà qua ngang mặt, thực chất là để hà hít lấy cái hương trời tích tụ rồi mới nhẹ môi nhấp vào cái vị tuyệt hảo trời đất ban tặng cho vùng đất Thái Nguyên.
Không ai biết cái thú uống trà đi vào đời sống con người từ bao giờ. Nhưng nhờ trà mà nhiều vùng đất trên thế giới định vị sâu đậm, rõ nét vào tâm trí con người. Đó là văn hóa trà. Ví như Trung Quốc có Trà Kinh; Nhật Bản có Trà Đạo; Việt Nam có Trà Phong… Thế giới có hơn 40 quốc gia, lãnh thổ có cây chè là cây mạng lại cho nông dân nhiều lợi ích kinh tế.
Ở Việt Nam cũng có hàng pho sách nói về chè và trà, trong đó có sách nói về kỹ thuật trồng, chăm sóc, chế biến chè và sách luận về văn hoá thưởng trà. Nhất là lúc bạn hữu ngồi với nhau, trò chuyện tâm giao thường lấy ấm trà Thái Nguyên dưỡng chuyện, giữ khách. Chè Thái Nguyên có hương, vị khác biệt so với các vùng chè Phú Thọ, Lâm Đồng, Tuyên Quang... Ấy là hương, vị của duyên trời, đất quyện hòa, đắm đuối, mê mải thành màu nước có sắc màu óng vàng như mật ong giữa độ xuân mang đầy sắc hoa.
Người lần đầu uống trà thấy lòng nao nao như phải lòng một ai đó, cả đêm thao thức, không ngủ vì hoài tưởng một nỗi niềm mơ hồ không rõ nghĩa. Với người sành trà thì trông thấy bộ khay bày ấm đất lòng đã chợt dùng dằng chẳng muốn đi. Nán lòng, ngắm đôi tay trà nương thon mảnh thả từng nõn chè vào ấm mà như thấy tiếng chuông reo.
Vẫn đôi bàn tay ấy tra nước vào ấm mà trông thấy một không gian đầy ắp một cánh đồng cốm thơm. Để khi chiêu một ngụm trà chợt thấy bừng tỉnh, như vừa trút đi một gánh nặng trần ai. Đầu óc tỉnh táo không còn chiêm bao mộng mị, hồn phiêu theo hương trà và câu chuyện đời người, đời chè được mở ra hào sảng. Lạ, quen mà thân thiện từ khi nào.
![]() |
Đồi chè Cầu Đá, xã La Bằng, một điểm check-in lý tưởng. |
Luận về trà, các nhà nông học cho rằng: Nhờ có thổ nhưỡng phù hợp cho cây chè phát triển, nên sản phẩm chè của Thái Nguyên trở nên đặc biệt hơn so với các vùng chè khác trong nước. Nhưng tôi nghĩ: Ngoài đất tốt, nước lành cho cây chè Thái Nguyên trở nên nổi tiếng, còn có sự cần mẫn, chuyên tâm của người làm chè. Hơn thế, trong chè Thái Nguyên còn ẩn chất, tích lũy một niềm đam mê, trách nhiệm, gọi kín nhẽ là đạo đức, là lối làm ăn có lương tâm, ý thức trách nhiệm của người nông dân.
Tôi chắc chắn ở Thái Nguyên cây chè đã gắn bó với đời sống con người từ nhiều đời nay, nhưng cây chè thực sự mang lại lợi ích kinh tế, nuôi sống người nông dân phải kể từ thuở cụ Đội Năm cùng một số người dân Tân Cương đã tay nải, cơm nắm, vượt rừng sang Phú Thọ lấy hạt chè giống về trồng bên bãi soi bồi ven dòng sông Công, rồi lập xưởng chế biến, làm ra sản phẩm chè Cánh Hạc bán cho người Hà Nội, Hải Phòng và xuất khẩu sang Pháp.
Đến nay đã non trăm năm người cả nước biết đến chè Thái Nguyên. Cũng ngót trăm năm nay Thái Nguyên được vinh danh “Đệ nhất danh danh trà”. Cũng kể từ bấy giờ đạo trà, nói đúng hơn là văn hóa trà đã bắt đầu hình thành trên vùng đất Thái Nguyên. Đời người như tấc gang, mới đó đã trăm năm, từ ít vuông chè năm xưa của cụ Đội Năm, nay cả Thái Nguyên bạt ngàn những nương chè nối nhau chạy dài tít tắp.
Trà xưa dùng để uống, trà nay vừa làm thức uống, đồng thời làm đồ ăn. Hiện đã có hơn 100 món ăn đặc sản độc lạ được chế biến có nguyên liệu từ chè và trà. Mới đầu còn có chút hoài nghi, nhưng một lần thưởng thức món ăn có nguyên liệu từ trà thì giật mình bảo nhau: Sao ngon mà lạ miệng đến như thế.
“Trăm năm đệ nhất danh trà”. Trăm năm đã đi qua, cây chè vẫn gắn bó gần gũi với con người. Để mỗi ngày nâng chén trà thơm được thấy vị trà đằm ở môi, hương trôi về họng, hơi thở thơm tho khiến mỗi người tự tin hơn khi trò chuyện thân thiện với mọi người. Ấy mới thành cái cớ cho “người ta” khát sự tục luỵ, cầm lòng ghen với cây chè đã ở ngay trên cái gốc xù xì mà cứ mơn mởn khoe sức trẻ. Cho mỗi sớm, lúc giọt sương còn đọng long lanh trên búp lá, hái mang về hãm thành chè tươi, hoặc đem sao sấy thành chè khô, pha uống đều cho con người sự cảm nhận lãng mạn, tỉnh táo.
Là nói cho phải đạo của người xứ Trà, chứ để có được cái màu xanh diệp lục mỡ màng, chất chứa trong búp lá cái vị chát, ngọt hậu cùng thứ hương trời - đất quyện hoà làm mê mẩn tao nhân mặc khách, người trồng chè phải đánh đổi bằng rất nhiều công sức, mồ hôi, bón chăm, tưới tắm mới có ngày thu hái. Rồi lại ngồi ôm lấy bếp lò, sao chè bằng nhiệt, tách nước bằng tay với ngọn lửa than...
“Cái” đạo trà được người dân vùng chè Thái Nguyên tạo dựng, gìn giữ, lưu truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau. Đạo trà vì thế ăn sâu vào tiềm thức, tư duy mỗi người, và luôn nhắc nhớ nhau gìn giữ, coi đạo trà là cái gốc nuôi sống dân vùng chè. Nhất là trong cơ chế thị trường hôm nay, lợi nhuận là quan trọng, nhưng không phải là tất cả với người dân vùng chè. Vì “cái” đạo trà không cho phép con người ta dễ dãi, làm ra những sản phẩm chè kém chất lượng rồi đóng gói bán cho du khách.
Cũng không đơn thuần trong đạo trà là tục vợ pha chè mời chồng; con pha chè mời cha; người dưới tuổi pha chè mời người cao niên, mà chén trà được coi là phương tiện hữu hiệu làm trong sạch tâm hồn. Mỗi chén trà dù nhỏ hay lớn cũng chứa đựng ở đó một khoảng thiên nhiên và nét đẹp văn hoá vô hình, làm lòng người đằm lại, nghĩ suy những việc nên làm hoặc đừng bao giờ làm - ấy là đạo trà, là văn hóa của người dân vùng chè Thái Nguyên.
Nguồn: https://baothainguyen.vn/van-hoa/202510/nhan-nha-voi-chen-tra-0c95018/
Bình luận (0)