Bối cảnh phát triển mới của Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung hiện nay
Nền kinh tế toàn cầu trong giai đoạn 2021 - 2030 có nhiều biến động phức tạp, khó dự báo. Các quốc gia vừa theo đuổi xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, vừa đối mặt với sự trỗi dậy của “chủ nghĩa bảo hộ”, buộc nhiều nước và tổ chức quốc tế điều chỉnh chiến lược và chính sách phát triển kinh tế. Mặt khác, xu hướng ổn định toàn cầu và khu vực trở nên khó xác định do sự cạnh tranh giữa các nền kinh tế lớn, trạng thái phân công lao động quốc tế và khu vực bị thay đổi, ảnh hưởng đến thị trường tiêu thụ, phân phối sản phẩm và môi trường đầu tư, phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu được dự báo sẽ chậm lại so với giai đoạn trước, thương mại và đầu tư quốc tế có xu hướng suy giảm; nợ công gia tăng, rủi ro trên thị trường tài chính và tiền tệ quốc tế ngày càng lớn. Đại dịch COVID-19 đã để lại hậu quả nghiêm trọng đối với kinh tế thế giới; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động nhanh chóng, sâu rộng tới nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường. Nhiều mô hình tăng trưởng dựa trên kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn được quốc gia lựa chọn, trong đó kinh tế sáng tạo đang chi phối sự phát triển và năng suất lao động. Thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng, đòi hỏi sự kết nối, hợp tác mạnh mẽ hơn để giải quyết, đặt ra vấn đề mới cho phát triển bền vững,…
Trong khi đó, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, vị thế và sức mạnh của đất nước ta tăng lên đáng kể, cả về quy mô lẫn năng lực cạnh tranh kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế có sự cải thiện, cơ cấu chuyển dịch theo hướng phát triển chiều sâu, hoạt động sử dụng nguồn lực đầu vào đạt hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, nước ta ký kết, tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng(1), đòi hỏi đổi mới, cải cách mạnh mẽ, sâu rộng về thể chế kinh tế, kiến tạo cơ hội mở rộng thị trường và thu hút đầu tư cho phát triển, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khu vực tư nhân ngày càng đóng góp quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và sự tụt hậu kinh tế vẫn là thách thức đáng lo ngại; mức độ hội nhập kinh tế quốc tế cao khiến biến động kinh tế toàn cầu tác động nhanh chóng và mạnh mẽ đến tình hình trong nước.
Mặt khác, khả năng tự chủ và tự lực của nền kinh tế bị ảnh hưởng nhiều bởi sự biến động trong khu vực đầu tư nước ngoài và thị trường lớn, trong khi điểm yếu nội tại chưa được giải quyết triệt để. Trong đó, năng lực tiếp cận nền kinh tế số còn hạn chế; các yếu tố nền tảng, như hạ tầng và nguồn nhân lực cần được cải thiện. Mức độ tham gia của Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực còn khiêm tốn, chủ yếu ở khâu đơn giản; nhu cầu vốn để phục vụ phát triển ngày càng cao, trong khi nguồn vốn ưu đãi và viện trợ đang có xu hướng giảm. Các vấn đề xã hội, như già hóa dân số, chênh lệch giàu nghèo, đô thị hóa,… tạo áp lực ngày càng lớn đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế, đòi hỏi Việt Nam chủ động vượt qua khó khăn, nhanh chóng thích ứng, nắm bắt cơ hội mới khi cấu trúc kinh tế toàn cầu và phương thức sản xuất, tiêu dùng thay đổi. Quan trọng hơn, năng suất lao động của đất nước ở trạng thái khá thấp và chất lượng việc làm chưa cao nên xu hướng lao động chất lượng cao dịch chuyển ra nước ngoài gia tăng,...
Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung bao gồm thành phố Đà Nẵng, các tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Vùng có diện tích tự nhiên là 27.881,7 km² (chiếm 8,45% tổng diện tích cả nước và xếp thứ hai trong bốn khu vực kinh tế trọng điểm); dân số vùng đạt khoảng 6,65 triệu người (năm 2022), tương đương với 6,77% toàn quốc, xếp thứ ba trong bốn vùng kinh tế trọng điểm (2). Đây là địa bàn có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của khu vực miền Trung - Tây Nguyên cũng như toàn quốc. Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung được kỳ vọng trở thành trung tâm kinh tế biển vững mạnh, đóng vai trò động lực cho sự phát triển toàn khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung; là cửa ngõ quan trọng ra biển đối với các tỉnh vùng Tây Nguyên, góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước. Hiện nay, thực trạng và định hướng phát triển kinh tế bền vững của vùng, đặc biệt là trong xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các yếu tố quốc tế, khu vực, quốc gia và vùng trong bối cảnh mới từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Những năm qua, vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể về kinh tế. Giai đoạn 2001 - 2019, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) trung bình luôn duy trì ở mức cao (10,25%/năm), đặc biệt, giai đoạn 2011 - 2019 có sự giảm tốc độ tăng trưởng (8,14%) so với giai đoạn trước, nhưng vẫn cao hơn bình quân toàn quốc (6,2%/năm). Trong đó, thành phố Đà Nẵng có mức tăng trưởng GRDP cao nhất trong vùng (12,05%/năm); tỉnh Quảng Nam đứng thứ hai (11,58%/năm) nhờ sự đóng góp lớn của Khu kinh tế mở Chu Lai và khu phức hợp ô tô Chu Lai - Trường Hải, giúp ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; tỉnh Quảng Ngãi cũng đạt mức tăng trưởng cao (11,19%/năm) nhờ hoạt động của Nhà máy lọc dầu Dung Quất từ năm 2009; tuy nhiên, trong 6 tháng đầu năm 2024, GRDP tỉnh Bình Định ước tăng 7,6%, tốc độ tăng trưởng dẫn đầu Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung(3). Hiện tại, vùng có 4 khu kinh tế ven biển, 4 cảng nước sâu, 4 sân bay, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp, logistics gắn với cảng biển và du lịch.
Thực trạng nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung hiện nay
Mặc dù có sự phát triển tương đối mạnh mẽ, song quy mô kinh tế của vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung vẫn khá nhỏ so với cả nước. Năm 2001, GRDP của toàn vùng chỉ chiếm khoảng 5% GDP quốc gia; đến năm 2019, tỷ lệ này tăng lên 7,09%; năm 2022 giảm còn 5,35%. Nhìn chung, vùng có xuất phát điểm thấp, đóng góp kinh tế của vùng chưa phản ánh đúng tiềm năng, lợi thế sẵn có và kỳ vọng của nhân dân. Nguyên nhân chủ yếu đến từ sự khắc nghiệt của thiên tai (như bão lũ, hạn hán, địa hình hẹp dài,...), kết cấu hạ tầng còn yếu kém, đặc biệt là hệ thống giao thông liên kết chưa phát triển dẫn đến việc khai thác tiềm năng chưa hiệu quả, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của vùng so với các vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam. Hiện nay, tất cả tỉnh, thành phố trong vùng đã được phê duyệt quy hoạch tỉnh giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Quyết định số 376/QĐ-TTg, ngày 4-5-2024, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Quy hoạch vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050” được ban hành, bảo đảm định hướng phát triển bền vững dài hạn cho toàn vùng và các địa phương nội vùng. Đặc biệt, thực hiện chủ trương sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh là cơ hội tốt để vùng tiếp tục phát triển.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là nguồn nhân lực trong doanh nghiệp ở vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung vẫn gặp nhiều khó khăn khi tỷ lệ lao động có kỹ năng, tay nghề cao, chỉ đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp ở mức thấp, đặc biệt là thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Phần lớn doanh nghiệp trong vùng có quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ; khả năng cạnh tranh hạn chế, khó mở rộng ra thị trường quốc tế và chỉ tham gia vào một số khâu trong chuỗi sản xuất và giá trị toàn cầu mà chưa đủ nội lực để phát triển sản phẩm chủ lực với thương hiệu tầm cỡ quốc gia hoặc quốc tế. Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung có khoảng 53.238 doanh nghiệp hoạt động (chiếm 5,78% tổng số doanh nghiệp trong cả nước), trong đó thành phố Đà Nẵng chiếm số lượng lớn nhất với 25.797 doanh nghiệp (48,46% toàn vùng), sau đó là tỉnh Quảng Nam (8.323), tỉnh Bình Định (8.086), tỉnh Quảng Ngãi (5.731) và tỉnh Thừa Thiên Huế (5.301). Mặt khác, công nghệ sản xuất của doanh nghiệp trên địa bàn còn ở mức thấp, đóng góp của Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) cũng dưới mức trung bình cả nước và thấp hơn các vùng Kinh tế trọng điểm khác.
Năng suất lao động của vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung đạt khoảng 173 triệu đồng/lao động, thấp hơn mức trung bình toàn quốc, đồng thời có sự khác biệt rõ rệt giữa các địa phương trong vùng. Thành phố Đà Nẵng đạt mức cao nhất (202,1 triệu đồng/lao động) nhờ nguồn nhân lực chất lượng cao và sự phát triển của các ngành dịch vụ, vốn là lĩnh vực có năng suất cao. Các tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi có tốc độ tăng trưởng năng suất lao động mạnh nhất, từ mức thấp nhất trong vùng năm 2005 (lần lượt 11,7 và 9,5 triệu đồng/lao động) đến năm 2022 tăng lên 134,1 và 154,2 triệu đồng/lao động. Các tỉnh Thừa Thiên Huế (104,7 triệu đồng/lao động) và Bình Định (118 triệu đồng/lao động) có năng suất lao động thấp nhất trong vùng. Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động tại thành phố Đà Nẵng là 5,19% và tỉnh Quảng Ngãi khoảng 4,39%, cao hơn mức trung bình cả nước (2,21%), trong khi các tỉnh Bình Định (1,79%) và Thừa Thiên Huế (1,98%) có tỷ lệ thấp hơn. Mặt khác, hiện tượng nguồn nhân lực tại chỗ di chuyển theo hướng Nam tiến (các trung tâm kinh tế phía Nam) và Bắc tiến (các trung tâm kinh tế phía Bắc) vẫn diễn ra mạnh mẽ qua các năm.
Thực tế chỉ ra rằng, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần được chú trọng triển khai, xây dựng kế hoạch, tầm nhìn lâu dài trước hết ở quy mô cấp vùng hơn là cấp tỉnh, bởi cấp vùng là phạm vi giúp tận dụng toàn diện nhiều lợi thế về quy mô, kết cấu hạ tầng cũng như nguồn lực chung, đồng thời tạo ra mạng lưới kết nối hiệu quả hơn giữa các tỉnh, thành phố, từ đó giảm bớt sự chênh lệch giữa các địa phương, tạo ra sự cân bằng trong phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh và sức hấp dẫn của toàn vùng.
Phương hướng, giải pháp phát triển nguồn nhân lực vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung
Thứ nhất, các địa phương vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung cần tiếp tục bám sát, triển khai phù hợp, hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong giáo dục - đào tạo, bảo đảm sự liên thông, thống nhất(4). Bên cạnh đó, chú trọng tiếp tục kiểm nghiệm, đánh giá chủ trương, chính sách, quy định mới, xây dựng “cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”(5). Mặt khác, nâng cao vai trò của chính quyền các tỉnh, thành phố của vùng trong kiến tạo môi trường phát triển, thúc đẩy đầu tư và liên kết các địa phương nhằm xây dựng mô hình quản trị liên kết vùng dựa trên sự tham gia của Nhà nước và thị trường; ban hành chính sách định hướng và điều tiết vĩ mô, ưu tiên, tạo môi trường hấp dẫn nhằm thu hút nguồn lực bên ngoài.
Thứ hai, tập trung thực hiện chuyên môn hóa giáo dục đại học và sau đại học bởi nguồn nhân lực chất lượng cao có thể di chuyển dễ dàng giữa các địa phương và tham gia trực tiếp vào các hoạt động phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng của vùng trong tương lai. Xây dựng các trường đại học cấp vùng đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, bảo đảm đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng cao cho toàn vùng. Theo đó, cần nghiên cứu định hướng phát triển thành phố Đà Nẵng thành trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực miền Trung - Tây Nguyên theo mô hình đại học trọng điểm, đại học quốc gia; tỉnh Thừa Thiên Huế là trung tâm đào tạo chất lượng cao vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ; Trường Đại học Quy Nhơn và Thung lũng khoa học Quy Hòa là trung tâm khoa học - công nghệ, đào tạo mạnh về lĩnh vực toán học, công nghệ thông tin, phân tích dữ liệu định hướng ứng dụng, phục vụ cho khu vực miền Trung - Tây Nguyên,....
Thứ ba, tăng cường nguồn lực đầu tư nâng cao chất lượng đào tạo nghề, đặc biệt là phát triển hệ thống đào tạo với nội dung giảng dạy và phương tiện thực hành hiện đại, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế từng địa phương và toàn vùng trên tinh thần “lấy chất lượng và hiệu quả đầu ra làm thước đo”(6). Tỷ trọng lao động đào tạo kỹ năng cần được nâng cao hơn bởi hiện nay vùng là địa bàn tập trung nhiều khu kinh tế thu hút dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) quan trọng. Mặt khác, cần tăng cường cơ chế liên kết phát triển kinh tế dựa trên sự chuyên môn hóa hay phân công lao động; công khai, minh bạch chủ trương, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của toàn vùng và từng địa phương, nhất là chương trình, dự án, đề án liên kết phát triển ngành, lĩnh vực thông qua cổng thông tin điện tử của từng địa phương, cổng thông tin điện tử chung của toàn vùng,... nhằm thuận lợi hóa việc tiếp cận thông tin pháp lý cho cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Thứ tư, khuyến khích áp dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào đào tạo nhân lực và nâng cao năng lực công nghệ cho doanh nghiệp, hỗ trợ người lao động làm quen và sử dụng hiệu quả công nghệ mới, đồng thời thu hút nguồn vốn chất lượng, đặc biệt là FDI. Các tỉnh, thành phố trong vùng cần được ưu tiên cơ chế đặc biệt để khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ..., đặc biệt là tập trung vào ngành mà vùng có lợi thế so sánh hoặc tiềm năng phát triển bền vững trong tương lai. Mở đường, tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp trên địa bàn hoạt động, thể hiện vai trò đi đầu, dẫn dắt trong đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp khu vực miền Trung - Tây Nguyên, là nền tảng để chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh và bền vững.
Thứ năm, doanh nghiệp trong vùng cần tập trung nguồn lực phù hợp để đầu tư vào đào tạo nghề cho nhân viên. Xây dựng cơ chế khuyến khích người lao động tham gia vào hoạt động nghiên cứu, sáng tạo; thống nhất quan điểm và đổi mới tư duy trong nhận thức, cách thức triển khai thực hiện chính sách đào tạo và sử dụng. Chính sách ưu đãi cũng nên hướng tới việc thu hút nhà khoa học xuất sắc và chuyên gia công nghệ quốc tế đến làm việc lâu dài tại các địa phương trong vùng, tập trung đầu tư nâng cấp đồng bộ chất lượng môi trường sống và nâng cao thu nhập. Cải thiện cơ sở vật chất kỹ thuật; phát triển đội ngũ quản lý, giảng viên và hướng dẫn viên; đồng thời, xây dựng chương trình đào tạo với nội dung hướng đến thực hành nghề, nghề mới, phong cách làm việc công nghiệp và kỷ luật lao động. Cùng với đó, trong từng lĩnh vực, cần có phương hướng, giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển, cụ thể:
Đối với ngành nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: Thiết lập cơ chế tiếp nhận và đáp ứng nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp, nhà đầu tư, đồng thời phối hợp với cơ sở đào tạo nhằm cung cấp nguồn lao động ngay từ giai đoạn đầu (khi doanh nghiệp mới triển khai dự án tại địa phương). Xây dựng chính sách thu hút và giữ chân đội ngũ nhà giáo, nghệ nhân xuất sắc, tận tâm với nghề đến địa phương giảng dạy, đào tạo và truyền đạt kỹ năng. Chú trọng đào tạo, nâng cao kỹ năng và tác phong làm việc cho người dân, đặc biệt vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, khuyến khích họ tham gia vào các ngành, nghề, tạo dựng công việc ổn định, dài hạn trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Tổ chức khóa học ngắn hạn dành cho đội ngũ lãnh đạo và quản lý doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp khởi nghiệp nhằm giúp họ nhanh chóng thích nghi với sự biến đổi của thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngành du lịch - dịch vụ: Huy động nguồn lực từ nhà đầu tư để phát triển trung tâm du lịch chính cũng như khu vực phụ trợ, từ đó khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế sản phẩm du lịch. Đặc biệt, chú trọng thu hút đầu tư cơ sở dịch vụ ăn uống, mua sắm và nguồn nhân lực nhằm đáp ứng tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch, đồng thời khuyến khích sự tham gia của tổ chức xã hội. Bảo đảm số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cho phát triển ngành du lịch trong tương lai; đặc biệt, cần thu hút và đào tạo lao động có trình độ chuyên môn cao, đầu tư vào chương trình đào tạo du lịch bằng nguồn vốn xã hội hóa, đưa giáo dục hướng nghiệp du lịch vào chương trình học tại trường phổ thông. Bên cạnh đó, tổ chức lớp tập huấn về kỹ năng nghiệp vụ, truyền đạt văn hóa phi vật thể và đáp ứng nhu cầu của khách du lịch thông qua khóa học ngoại ngữ, nghiệp vụ. Bảo đảm việc đào tạo thường xuyên cho nhân viên làm việc tại cơ sở lưu trú, doanh nghiệp lữ hành, nhà hàng; giáo dục, rèn luyện nhân viên về thái độ niềm nở, thân thiện và hiếu khách; giữ gìn phong tục, tập quán và văn hóa địa phương (trang phục, ngôn ngữ,...); bảo vệ cảnh quan và môi trường để xây dựng các tỉnh, thành phố trong vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung thành điểm đến an toàn, thân thiện và hấp dẫn cho khách du lịch.
Lĩnh vực thương mại: Thu hút doanh nhân và nguồn nhân lực thương mại qua chương trình đào tạo, tạo điều kiện cho họ làm việc lâu dài tại các địa phương trong vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung; ưu tiên sinh viên địa phương tốt nghiệp từ trường đại học và cao đẳng chuyên ngành kinh tế, kinh doanh và thương mại. Nghiên cứu, ban hành chính sách khuyến khích và hỗ trợ mở rộng cơ sở đào tạo nghề thương mại thông qua nhiều hình thức phù hợp; tổ chức hoạt động xúc tiến, hỗ trợ và giới thiệu việc làm hiệu quả. Bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà nước và doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại nhằm nâng cao năng lực quản lý thị trường. Chú trọng vào đào tạo nghề để phát triển đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật và nhân viên với trình độ chuyên môn cao, có khả năng ứng dụng thành thạo thành tựu công nghệ hiện đại tại cơ sở thương mại.
Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, quản lý chuỗi cung ứng, quản lý trung tâm logistics,… gắn với phát triển kỹ năng chuyên môn hiện đại cho nhân viên. Đẩy mạnh nâng cao kỹ năng cho nhân lực trong tổ chức kinh doanh kết cấu hạ tầng, như chợ, siêu thị, trung tâm thương mại; khuyến khích nhà quản lý tham quan và học hỏi kinh nghiệm từ cơ sở trong và ngoài nước. Tận dụng nguồn vốn từ trong và ngoài nước để hỗ trợ đào tạo cho doanh nghiệp, bảo đảm phân bổ hợp lý và sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách nhà nước. Tổ chức khóa học đào tạo cho doanh nghiệp thương mại, chẳng hạn thương mại điện tử, lập kế hoạch kinh doanh điện tử, bảo mật trong thương mại điện tử,…
Đối với lĩnh vực y tế: Xây dựng kế hoạch nguồn nhân lực cho ngành y tế dựa trên việc phân tích sự thay đổi của mô hình bệnh tật, dự báo nhu cầu chăm sóc sức khỏe và việc sử dụng dịch vụ y tế của người dân, dự đoán về tình hình dân số nhằm xác định số lượng cần thiết cho từng loại hình nhân lực trong địa phương và từng cấp chăm sóc. Thiết lập tiêu chuẩn để đánh giá và thẩm định chất lượng đào tạo cán bộ y tế. Tổ chức, quản lý việc cấp chứng chỉ hành nghề và giấy phép hoạt động cho nhân viên y tế cũng như cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật. Tiếp tục phát triển hình thức đào tạo đa dạng với quy mô phù hợp để đáp ứng nhu cầu, đồng thời nâng cao chất lượng chương trình đào tạo, bảo đảm đủ số lượng chức danh cần thiết cho cơ sở y tế. Tăng cường đào tạo sau đại học đối với đội ngũ cán bộ y tế tuyến tỉnh, huyện, đặc biệt là lãnh đạo đơn vị và phụ trách khoa, phòng; khuyến khích tham gia chương trình đào tạo ở nước ngoài cho lĩnh vực và chuyên ngành mà Việt Nam chưa đủ điều kiện đào tạo nhằm phát triển đội ngũ cán bộ y tế chuyên sâu, chất lượng cao.
Thứ sáu, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền, cũng như sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành để phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ. Thực hiện rà soát, bổ sung quy hoạch cũng như chiến lược phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ cho các tỉnh, thành phố trong vùng. Tích cực đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực lĩnh vực khoa học - công nghệ, phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu, đặc biệt là nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, quản trị công nghệ, và quản lý doanh nghiệp... Quản lý ngân sách hợp lý, bảo đảm ngân sách nhà nước được phân bổ và sử dụng hiệu quả cho công tác phát triển nguồn nhân lực; triển khai chương trình và dự án đào tạo ưu tiên, đồng thời cải cách cơ chế quản lý tài chính để khuyến khích sự tự chủ của tổ chức khoa học - công nghệ. Khuyến khích hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ./.
----------------------
(1) Như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (UKVFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP),...
(2) Xem: Hoàng Hồng Hiệp: “Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trong việc thực hiện sứ mệnh là hạt nhân tăng trưởng và thúc đẩy phát triển khu vực miền Trung - Tây Nguyên”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 15-8-2023, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/828118/vung-kinh-te-trong-diem-mien-trung-trong-viec-thuc-hien-su-menh-la-hat-nhan-tang-truong-va-thuc-day-phat-trien-khu-vuc-mien-trung---tay-nguyen.aspx
(3) Xem: Xuân Nhàn: “Bình Định dẫn đầu tăng trưởng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung”, Báo Lao động, ngày 2-7-2024, https://laodong.vn/xa-hoi/binh-dinh-dan-dau-tang-truong-vung-kinh-te-trong-diem-mien-trung-1360733.ldo
(4) Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4-11-2013, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; Quyết định số 404/QĐ-TTg, ngày 27-3-2015, của Thủ tướng Chính phủ, “Về phê duyệt Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa, giáo dục phổ thông; Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (năm 2018); Luật Giáo dục (năm 2019),…
(5), (6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 110, 138
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/thuc-tien-kinh-nghiem1/-/2018/1102503/phuong-huong%2C-giai-phap-nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc-phuc-vu-cong-cuoc-phat-trien-kinh-te---xa-hoi-vung-kinh-te-trong-diem-mien-trung-trong-ky-nguyen-moi-cua-dat-nuoc.aspx
Bình luận (0)