Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Tăng cường hợp tác doanh nghiệp - trường đại học, viện nghiên cứu - cơ quan nhà nước, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực phát triển kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên mới

TCCS - Phát triển khoa học - công nghệ gắn liền với phát triển nguồn nhân lực nghiên cứu và ứng dụng chất lượng cao, hình thành cơ chế hợp tác nghiên cứu, khai thác và sử dụng sản phẩm nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Trong bối cảnh đó, việc tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ giữa doanh nghiệp - trường đại học, viện nghiên cứu - cơ quan nhà nước sẽ thúc đẩy vận hành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tạo động lực phát triển kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên mới.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản01/10/2025

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan sản phẩm khởi nghiệp của học sinh, sinh viên tại Ngày hội Khởi nghiệp quốc gia của học sinh, sinh viên lần thứ 7_Ảnh: TTXVN

Vai trò của doanh nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu và cơ quan nhà nước trong nghiên cứu khoa học

Hợp tác (doanh nghiệp - trường đại học, viện nghiên cứu - cơ quan nhà nước) được nhiều nghiên cứu đề cập như là trụ cột của việc vận hành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, nơi ý tưởng khoa học được hình thành, phát triển, chuyển giao và ứng dụng vào thực tiễn. Trong đó, nhà nước giữ vai trò kiến tạo thể chế, điều phối chiến lược và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Trường đại học, viện nghiên cứu là nơi truyền thụ tri thức, đào tạo nguồn nhân lực nghiên cứu, nhân lực chất lượng cao và chuyển giao công nghệ. Doanh nghiệp là địa chỉ hướng đến để thương mại hóa kết quả nghiên cứu, bảo đảm tính ứng dụng thực tiễn của nghiên cứu. Mối quan hệ tương tác giữa các chủ thể này chính là “động cơ nhiều xi-lanh” vận hành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, qua đó tạo động lực và cầu nối thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân. Tăng cường mối liên kết này giúp cho trường đại học, viện nghiên cứu ứng dụng hiệu quả kiến thức vào thực tiễn, nâng cao chất lượng đào tạo; doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận nguồn nhân lực chất lượng cao, ứng dụng thành tựu nghiên cứu mới để nâng cao năng suất và chất lượng hoạt động sản xuất - kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh, qua đó tạo quy trình phối hợp, cộng sinh nguồn lực để đào tạo, nghiên cứu và phát triển, đầu vào gắn với đầu ra, tăng giá trị thương hiệu và doanh thu cho các bên để thúc đẩy đất nước đạt mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Mối quan hệ hợp tác giữa trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp là xu hướng phổ biến và được đánh giá là giải pháp hiệu quả để nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; đồng thời, giải quyết được bài toán của doanh nghiệp, tăng hàm lượng ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất, kinh doanh để tăng năng suất lao động, phát triển bền vững. Một số hình thức hợp tác phổ biến giữa doanh nghiệp và trường đại học, viện nghiên cứu bao gồm: i- Hợp tác trong nghiên cứu và đào tạo nhân lực để giải quyết vấn đề theo nhu cầu của doanh nghiệp; ii- Thương mại hóa kết quả nghiên cứu của trường đại học, viện nghiên cứu; iii- Triển khai chương trình lưu chuyển, trao đổi, thực tập của giảng viên, cán bộ nghiên cứu khoa học - kỹ thuật và sinh viên; iv- Phối hợp xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng; v- Phối hợp triển khai hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp; vi- Phối hợp triển khai hoạt động nâng cao năng lực quản trị trường đại học, viện nghiên cứu.

Bước vào kỷ nguyên phát triển mới, nơi tri thức, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI) trở thành động lực trung tâm của tăng trưởng, Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được ban hành, giúp giải phóng kịp thời tư duy khoa học, thúc đẩy đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tạo nền tảng phát triển mạnh mẽ đất nước trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết số 57-NQ/TW nêu rõ: “Người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính; nhà khoa học là nhân tố then chốt; Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”.

Một số vấn đề đặt ra trong hợp tác nghiên cứu khoa học

Mặc dù hợp tác giữa doanh nghiệp - trường đại học, viện nghiên cứu - cơ quan nhà nước đã được nhiều nghiên cứu chỉ rõ là trụ cột trong vận hành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tạo động lực phát triển kinh tế tư nhân, thực tiễn cho thấy việc hiện thực hóa liên kết này còn gặp một số thách thức.

Trước hết, nguồn nhân lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ chất lượng cao vẫn còn thiếu và phân tán. Nhiều trường đại học, viện nghiên cứu còn thiếu đội ngũ chuyên gia chuyên sâu, có năng lực giải quyết bài toán thực tiễn của doanh nghiệp. Trong khi đó, khối doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, chủ yếu là doanh nghiệp khu vực tư nhân thiếu nhân sự có khả năng hấp thụ, tiếp nhận, đánh giá và triển khai áp dụng kết quả nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, do quy mô nhỏ, tầm nhìn của lãnh đạo doanh nghiệp nhỏ nhìn chung còn hạn chế, nên thiếu định hướng và dẫn dắt sự phát triển doanh nghiệp dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; còn e ngại trong việc “đặt hàng” nghiên cứu; ít quan tâm đến việc nhận chuyển giao công nghệ và kết quả nghiên cứu khoa học và chưa quan tâm, đầu tư đúng mức đối với việc nghiên cứu, cải tiến công nghệ trong sản xuất - kinh doanh.

Thứ hai, cơ chế gắn kết giữa trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp chưa thực sự hiệu quả, đặc biệt trong khai thác thế mạnh và tiềm năng của từng bên. Trường đại học, viện nghiên cứu có nền tảng về tri thức khoa học - công nghệ, nhưng vẫn cần địa chỉ ứng dụng kết quả nghiên cứu. Trong khi đó doanh nghiệp rất có nhu cầu ứng dụng thực tiễn, nhưng thiếu thông tin, thiếu niềm tin và thiếu cơ chế để tham gia sâu vào quá trình nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ. Việc thiếu thiết chế trung gian, như trung tâm chuyển giao công nghệ, vườn ươm tạo cũng làm giảm tính bền vững trong hợp tác. Bên cạnh đó, vai trò kiến tạo và hỗ trợ kinh phí nghiên cứu ban đầu của cơ quan nhà nước nhằm kết dính và thúc đẩy nhu cầu hợp tác giữa trường đại học, viện nghiên cứu với doanh nghiệp trong hoạt động nghiên cứu khoa học chưa thực chất, thiếu tính chiến lược và động lực thúc đẩy hợp tác giữa hai chủ thể này.

Thứ ba, vấn đề bản quyền và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, quyền đồng sở hữu, phân chia lợi ích hoặc chuyển giao tài sản trí tuệ đối với sản phẩm nghiên cứu trong mối quan hệ trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp vẫn chưa rõ ràng. Cơ chế, chính sách khuyến khích đồng tài trợ giữa doanh nghiệp và trường đại học, viện nghiên cứu trong thực hiện nhiệm vụ khoa học - công nghệ chưa hấp dẫn.

Cơ hội và động lực về nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, trong kỷ nguyên mới

Dù còn một số thách thức, tuy nhiên hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và doanh nghiệp khu vực tư nhân đang đứng trước “cửa sổ cơ hội” đặc biệt, nhờ sự ra đời kịp thời các nghị quyết mới của Đảng, sự hội tụ quyết tâm của các cấp, các ngành.

Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW là hai nghị quyết quan trọng trong bốn Nghị quyết của Bộ Chính trị - “bộ tứ trụ cột”(1). Trong đó, Nghị quyết số 57-NQ/TW định hướng cơ chế, giải pháp tháo gỡ các nút thắt, đồng thời đưa ra một số quan điểm mới và đột phá nhằm thúc đẩy phát triển nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nghị quyết nêu rõ: “có cơ chế thí điểm để doanh nghiệp thử nghiệm công nghệ mới có sự giám sát của Nhà nước; có chính sách miễn trừ trách nhiệm đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong trường hợp thử nghiệm công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới mà có thiệt hại về kinh tế do nguyên nhân khách quan”; “được sử dụng ngân sách nhà nước thuê chuyên gia, sử dụng tài sản hữu hình và trí tuệ để liên kết, hợp tác khoa học và công nghệ với các tổ chức, doanh nghiệp”; “có cơ chế cho phép và khuyến khích các tổ chức nghiên cứu, nhà khoa học thành lập và tham gia điều hành doanh nghiệp dựa trên kết quả nghiên cứu”...

Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4-5-2025 của Bộ Chính trị tiếp tục xác định: “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024 của Bộ Chính trị và các chủ trương, đường lối khác của Đảng”. Nhiệm vụ, giải pháp thứ tư của Nghị quyết này là thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh doanh hiệu quả, bền vững trong kinh tế tư nhân, với nhiều cơ chế đột phá, trong đó gợi mở cơ chế hợp tác, nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ của doanh nghiệp.

Để kịp thời thể chế hóa chủ trương của Đảng về thúc đẩy đổi mới sáng tạo và kinh tế tư nhân tại Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 24-1-2025, của Bộ Chính trị, về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30-4-2025, của Bộ Chính trị, về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4-5-2025, của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân - “bộ tứ trụ cột”, Chính phủ đã trình Quốc hội khóa XV thông qua một số luật, trong đó đề cập một số chính sách cụ thể về đẩy mạnh hợp tác giữa doanh nghiệp - trường đại học, viện nghiên cứu - cơ quan nhà nước trong nghiên cứu khoa học. Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo số 93/2025/QH15 đã thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, tạo bước chuyển khơi thông nguồn lực, kết nối mọi lĩnh vực nhằm thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành động lực mới trong tăng trưởng và phát triển bứt phá kinh tế - xã hội. Luật định hình cách tiếp cận hoàn toàn mới, thúc đẩy đổi mới sáng tạo toàn xã hội, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, khuyến khích mạnh mẽ thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Luật thể hiện rõ vai trò kiến tạo của Nhà nước (xây dựng, phát triển hạ tầng phục vụ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo; xây dựng hạ tầng thông tin, thống kê khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia..) và cơ chế quản lý của Nhà nước (trách nhiệm quản lý nhà nước, biện pháp quản lý nhà nước, hành vi bị nghiêm cấm về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; nội dung chi, nguyên tắc phân bổ, quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; miễn, loại trừ trách nhiệm trong hoạt động thử nghiệm có kiểm soát; bảo vệ người tham gia thử nghiệm có kiểm soát...).

Cùng với đó, một số Luật liên quan chuẩn bị có hiệu lực, như Luật Nhà giáo năm 2025, Luật Việc làm năm 2025, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025... quy định chính sách thúc đẩy hoạt động hợp tác giữa doanh nghiệp - trường đại học, viện nghiên cứu - cơ quan nhà nước trong nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ. Cơ chế, chính sách mới này sẽ thúc đẩy hình thành một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo linh hoạt, kết nối thực tiễn, trong đó “ba nhà” không chỉ đóng vai trò độc lập, mà hợp tác, cùng kiến tạo giá trị tri thức, khoa học - công nghệ, tạo cực phát triển mới với năng suất, chất lượng lao động cao hơn, tăng cường sức cạnh tranh hơn, tạo xung lực quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng GDP đạt mức hai con số trong thời gian dài tới đây, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Kiểm tra chất lượng cây mía trong phòng nuôi cấy mô vô trùng tại Trung tâm nông nghiệp công nghệ cao Lam Sơn (thuộc Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn (Lasuco)), tỉnh Thanh Hóa_Ảnh: TTXVN

Giải pháp nhằm thúc đẩy hợp tác doanh nghiệp - trường đại học, viện nghiên cứu- cơ quan nhà nước trong nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ

Thứ nhất, tăng cường vai trò dẫn dắt, kiến tạo, kết nối của Nhà nước; phát huy vai trò trung tâm của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp khu vực tư nhân trong hoạt động khoa học, công nghệ, bảo đảm nghiên cứu khoa học cần đi trước để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và quản trị quốc gia.

Việc xây dựng chiến lược, kế hoạch và đầu tư phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cần gắn với chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực mũi nhọn quốc gia và cần được triển khai trước một bước, đặc biệt là phát triển đội ngũ nhân lực khoa học, công nghệ có trình độ cao, tiệm cận trình độ của các nước phát triển. Xây dựng chương trình chiến lược quốc gia về nguồn nhân lực khoa học, công nghệ có trình độ cao, đặc biệt là nhân lực khoa học, công nghệ và nhà giáo giỏi cho công nghệ chiến lược, sản phẩm chiến lược quốc gia. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng nghiên cứu hình thành cơ chế đặt hàng, trao cơ hội học bổng cũng như hỗ trợ tín dụng đối với sinh viên xuất sắc trong lĩnh vực công nghệ chiến lược, sản phẩm chiến lược quốc gia để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao có tính then chốt.

Xây dựng hệ thống đánh giá năng lực nghiên cứu theo ngành/ lĩnh vực, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên tập trung cho một số lĩnh vực có thế mạnh. Lựa chọn và ưu tiên đầu tư nghiên cứu khoa học vào một số lĩnh vực then chốt, như vật liệu bán dẫn, năng lượng sạch, đường sắt cao tốc, năng lượng nguyên tử, trí tuệ nhân tạo...; có chính sách khuyến khích doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp khu vực tư nhân tham gia vào dự án đầu tư trọng điểm quốc gia để tăng cường năng lực nội sinh trong nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển bứt phá của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Đầu tư hình thành trung tâm nghiên cứu chuyên ngành; xây dựng hạ tầng, dịch vụ hỗ trợ chuyên biệt trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao để thu hút doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ sở thí nghiệm, nghiên cứu dùng chung.

Quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể chính sách về phát triển nguồn nhân lực, nhân tài về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; tạo điều kiện để trường đại học, viện nghiên cứu tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển. Khuyến khích doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế tư nhân thành lập cơ sở đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao.

Sớm thể chế hóa chủ trương việc doanh nghiệp, tổ chức tư nhân được sử dụng phòng thí nghiệm, phòng thử nghiệm, phòng hỗ trợ thiết kế và thiết bị nghiên cứu dùng chung, trung tâm thử nghiệm, đo lường, kiểm định, giám định của Nhà nước để phát triển sản phẩm theo tinh thần của Nghị quyết số 68-NQ/TW nhằm tăng cường hiệu quả hợp tác trong nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ giữa doanh nghiệp với trường đại học, viện nghiên cứu.

Thứ hai, lấy hiệu quả việc ứng dụng sản phẩm nghiên cứu khoa học tại doanh nghiệp làm thước đo đánh giá hoạt động khoa học - công nghệ

Quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong đổi mới sáng tạo nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ; khấu trừ thuế; cơ chế để việc tham gia nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ của cán bộ nghiên cứu, giảng viên, dù được thực hiện ở doanh nghiệp, vẫn được coi là thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, giảng dạy ở trường đại học, viện nghiên cứu. Thực hiện việc đánh giá kết quả nghiên cứu gắn với mức độ ứng dụng, thương mại hóa, giải quyết vấn đề thực tiễn.

Trong quá trình xác định lĩnh vực nghiên cứu, hợp tác cần có sự tham gia, đánh giá của doanh nghiệp từ các khâu ban đầu nhằm định hướng vấn đề ưu tiên cần nghiên cứu, giải quyết, cũng như bảo đảm tính khả thi trong nghiên cứu. Đồng thời, doanh nghiệp tăng cường đầu tư nguồn lực cho công tác nghiên cứu, đặt hàng vấn đề nghiên cứu cho trường đại học, viện nghiên cứu, cung cấp chương trình học bổng để thu hút người học, nhà khoa học tham gia. Tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp vào quá trình đào tạo nhân lực; doanh nghiệp tham gia đánh giá, công nhận tốt nghiệp, đặc biệt là đối với chương trình chất lượng cao.

Thứ ba, chú trọng xây dựng văn hóa hợp tác và đạo đức nghiên cứu để củng cố niềm tin hợp tác giữa các bên trong hoạt động khoa học, công nghệ

Tăng cường triển khai chương trình khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; tổ chức sự kiện, trình diễn, giải thưởng để phổ biến, lan tỏa văn hóa khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo nhằm thay đổi nhận thức, thói quen, hình thành quy tắc, chuẩn mực hành vi về nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo, củng cố và tăng cường niềm tin lẫn nhau giữa doanh nghiệp và trường đại học, viện nghiên cứu.

Tổ chức phong, tặng danh hiệu của Nhà nước, giải thưởng và hình thức khen thưởng khác đối với tổ chức, cá nhân có thành tích trong hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đồng thời, xử lý nghiêm hành vi vi phạm pháp luật, đạo đức nghiên cứu, cản trở, gây khó khăn cho hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Thứ tư, đổi mới mạnh mẽ phương thức quản lý nhà nước trong hoạt động khoa học, công nghệ

Chuyển mạnh từ cơ chế tiền kiểm sang hậu kiểm, dựa trên kết quả đầu ra của hoạt động khoa học, công nghệ. Đẩy mạnh phân quyền, áp dụng khoán chi đến sản phẩm cuối cùng hoặc khoán chi từng phần theo nội dung nghiên cứu gắn với cơ chế giải trình.

Hình thành, phát triển thiết chế trung gian về khoa học, công nghệ. Hình thành quỹ phát triển khoa học và công nghệ ở các cấp, doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị sự nghiệp, đặc biệt là ở cơ sở giáo dục đại học; phát huy vai trò của trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, công viên công nghệ cao và đổi mới sáng tạo, trung tâm ươm tạo, chuyển giao công nghệ.

Ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý đề tài, đề án, chương trình nghiên cứu khoa học, đánh giá, kết nối cung - cầu. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Kết nối hệ thống dữ liệu quốc gia với quốc tế nhằm tạo điều kiện để kết nối, chia sẻ, hợp tác trong nghiên cứu khoa học và đánh giá, xác minh kết quả nghiên cứu ở phạm vi quốc tế.

Thứ năm, tăng cường hợp tác giữa trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu quốc tế trong nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ

Quy định chi tiết, hướng dẫn thực hiện cơ chế, chính sách về hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo. Triển khai chương trình nghiên cứu liên kết doanh nghiệp, trường đại học, viện quốc tế. Xây dựng chương trình học bổng, trao đổi nhà khoa học và sinh viên, hỗ trợ nhóm nghiên cứu chung giữa Việt Nam và nước ngoài. Bên cạnh đó, cần tăng cường năng lực hợp tác quốc tế cho trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp thông qua đào tạo ngoại ngữ, năng lực nghiên cứu, ứng dụng và quản trị dự án quốc tế.

Ngoài ra, cần thúc đẩy cơ chế hợp tác giữa doanh nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu trong việc tạo môi trường thu hút nhân tài ở nước ngoài, nhất là thu hút nhà khoa học ở các nước có trình độ khoa học - công nghệ phát triển để thực hiện nhiệm vụ khoa học lớn, có tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội của đất nước./.

---------------------------------

(1) Bốn Nghị quyết của Bộ Chính trị bao gồm: Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 24-1-2025, về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30-4-2025, về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4-5-2025, về phát triển kinh tế tư nhân

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/1143002/tang-cuong-hop-tac-doanh-nghiep---truong-dai-hoc%2C-vien-nghien-cuu---co-quan-nha-nuoc%2C-thuc-day-doi-moi-sang-tao%2C-tao-dong-luc-phat-trien-kinh-te-tu-nhan-trong-ky-nguyen-moi.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Vẻ đẹp của vịnh Hạ Long được 3 lần UNESCO công nhận là di sản
Lạc bước săn mây ở Tà Xùa
Có một đồi hoa Sim tím ngát vùng trời Sơn La
Đèn kéo quân - Món quà Trung thu trong ký ức

Cùng tác giả

Di sản

;

Nhân vật

;

Doanh nghiệp

;

No videos available

Thời sự

;

Hệ thống Chính trị

;

Địa phương

;

Sản phẩm

;