Từ tháng 4-1977 đến tháng 11-1981, đồng chí Nguyễn Văn Linh được Đảng phân công giữ các chức vụ: Trưởng ban cải tạo xã hội chủ nghĩa Trung ương; Trưởng ban Dân vận - Mặt trận Trung ương; Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam đến năm 1980. Năm 1980-1981, đồng chí được phân công theo dõi thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Chính phủ tại các tỉnh miền Nam.
Trên cương vị Trưởng Ban cải tạo xã hội chủ nghĩa Trung ương, đồng chí Nguyễn Văn Linh trăn trở, suy nghĩ nhiều về thực tế nông nghiệp, nông dân miền Nam sau giải phóng. Nhận ra sự nóng vội áp dụng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa như ở miền Bắc đối với nông dân miền Nam, đồng chí Nguyễn Văn Linh đề xuất với Trung ương “nên để chậm lại một thời gian, không nên nóng vội”. Theo đồng chí, cần phải suy nghĩ hình thức, bước đi, cách làm cho phù hợp, không nên rập khuôn, máy móc vì đặc điểm hai miền Nam, Bắc khác nhau. Cách nghĩ có chiều sâu về quy luật cách mạng có hàm lượng khoa học và cách mạng của đồng chí về cải tạo kinh tế là “để sản xuất phát triển, thúc đẩy nền sản xuất tiến lên, nếu cải tạo mà làm cho sản xuất đình trệ, người lao động mất việc làm, đời sống đồng bào khó khăn thì chúng ta cần phải xem lại”.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thăm và làm việc tại Công ty vận tải Biển Sài Gòn. Ảnh tư liệu |
Với suy nghĩ tích cực đó, kết hợp nhiệt tình cách mạng với tri thức khoa học, trong vấn đề cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, đồng chí Nguyễn Văn Linh cho rằng: “Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa là một quy luật của thời kỳ quá độ lên CNXH nhưng cách làm không phải là đồng loạt như nhau với các thành phần và đối tượng khác nhau. Đối với thành phần kinh tế của bọn tư bản mại bản mà quyền lợi của họ gắn liền với bộ máy chiến tranh của Mỹ-ngụy, ta phải tịch thu, quốc hữu hóa. Các cơ sở sản xuất, đồn điền, cao su, chè... của bọn tướng tá ngụy, vốn làm giàu trên xương máu của nhân dân cũng phải làm như vậy. Còn các cơ sở sản xuất nhỏ và vừa của các tiểu thương, tiểu chủ, tư sản dân tộc,... đã có những đóng góp nhất định vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, hiện đang còn đáp ứng nhu cầu đời sống nhân dân, thì ta phải giúp đỡ họ duy trì sản xuất, góp phần ổn định cuộc sống của thành phố, làm cho bộ mặt kinh tế của thành phố ngày càng phồn vinh”(2).
Nhưng thời điểm đó, ý kiến của đồng chí chưa được Trung ương chấp nhận. Trên cương vị phụ trách Trưởng ban Dân vận-Mặt trận Trung ương, đồng chí Nguyễn Văn Linh tiếp tục nêu cao tư tưởng, tấm gương của một người cộng sản chân chính, luôn có tư duy đổi mới, sáng tạo, dám đề xuất nhiều việc có lợi cho cách mạng. Tại hội nghị tổng kết 10 năm công tác tôn giáo TP Hồ Chí Minh, đồng chí khẳng định: “Bà con công giáo cũng là con Lạc cháu Hồng, là công dân Việt Nam. Đồng bào công giáo có tinh thần yêu nước, chống áp bức bóc lột, ngày càng hướng theo cách mạng. Tôi cứ nghĩ rằng nếu người công giáo làm theo giáo huấn của Đức Jesus thì sẽ rất gần gũi với lý tưởng của những người cộng sản”.
Trên cương vị Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam, đồng chí Nguyễn Văn Linh là người khởi xướng sự nghiệp đổi mới công đoàn trên nhiều phương diện, từ tên gọi đến hoạt động, đối tượng, tổ chức, vận động. Tên gọi - theo đồng chí là Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Đồng chí chỉ rõ: “Công đoàn là tổ chức rộng lớn của công nhân lao động, cần phải đổi mới tổ chức và hoạt động để nó thực sự là “trường học kinh tế, trường học quản lý và trường học chủ nghĩa xã hội”, góp phần xây dựng giai cấp công nhân nước ta không ngừng lớn mạnh, đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu”.
Từ tháng 12-1981, trở lại cương vị Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh, trải qua thời kỳ “ba chìm bảy nổi”, với sự kiên định và tinh thần đổi mới, sáng tạo của người cộng sản, đồng chí Nguyễn Văn Linh tiếp tục đưa ra những suy nghĩ, đề xuất nhằm tháo gỡ khó khăn cho thành phố. Một suy nghĩ có tính xuyên suốt là làm sao cho người dân nhận thức được sự “đổi đời”, từ người làm thuê sang người làm chủ thành phố. Cần phải đánh giá đúng và phát huy mặt tích cực và thấy rõ mặt hạn chế của quần chúng để đưa ra được phương pháp và cách tiến hành có hiệu quả. Khi nghe được các trí thức thành phố nói thành phố “thừa nhiệt tình, thiếu kiến thức”, đồng chí Nguyễn Văn Linh cho đó là nhận định đúng đắn và khi nói đến cái yếu kém.
Đồng chí mạnh dạn nói thẳng đó là những “vi phạm” chứ không nói chung là “yếu kém”. Đó là những vi phạm về:
1. Không đủ bình tĩnh để nhìn nhận thành phố, một khi được giải phóng, hiển nhiên trở thành tài sản của chính chúng ta.
2. Chưa nhận thức được thực trạng kinh tế-xã hội của thành phố.
3. Không đủ hiểu biết về lịch sử của quá trình hình thành và vai trò của nền công nghiệp thành phố trong cơ cấu công-nông nghiệp của khu vực.
4. Chưa đánh giá chặt chẽ những tồn đọng mà chế độ mới phải giải quyết như tệ nạn xã hội, thất nghiệp, tiêu cực nội bộ.
5. Vi phạm nghiêm trọng nhất là chưa xác định thật rõ hai mục tiêu của hoạt động kinh tế thành phố là mở rộng, nâng cao sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân. Đồng chí Nguyễn Văn Linh cho rằng, điều này liên quan đến chỗ đứng nhận thức về vai trò của thành phố đã chuyển từ thời chiến sang thời bình. Đây là thái độ nhìn thẳng vào sự thật, tìm phương thức, lối thoát, bước đi phù hợp cho Thành phố.
Nhà lưu niệm Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tại thôn Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Ảnh: BÌNH AN |
Được sự ủng hộ của Thành ủy, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã tổ chức củng cố hệ thống chính quyền, phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân; tập trung khôi phục, phát triển các ngành kinh tế; kết hợp cải tạo với xây dựng, coi xây dựng là chủ yếu. Một trong điều nổi bật dám nghĩ, dám nói, dám làm của đồng chí Nguyễn Văn Linh là tìm tòi đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Một thời gian dài đồng chí trăn trở, suy nghĩ làm sao sản xuất của TP Hồ Chí Minh phát triển. Biết được “làm chui” khoán sản phẩm ở Đồ Sơ, Hưng Yên; thấy nhân dân thành phố xếp hàng mua gạo, nhận ra nhiều cái bất cập, lỗi thời, đồng chí đã đề xuất những cách làm mới, hợp quy luật, hợp lòng dân.
Sau khi có Nghị quyết Trung ương 6 khóa IV (9-1979), TP Hồ Chí Minh xuất hiện mô hình “bung ra” đổi mới sản xuất và kinh doanh, áp dụng chế độ lương khoán sản phẩm ở các xí nghiệp dệt Thành Công, Phong Phú, Phước Long, Thắng Lợi... Đồng chí Nguyễn Văn Linh ủng hộ những mô hình tiên tiến này và khẳng định: “Trả về cho sản xuất sự vận hành đúng quy luật của nó, thì tình hình chuyển biến trông thấy”. Với tư duy phải phá bỏ cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp, đồng chí Nguyễn Văn Linh chỉ đạo: “Chỉ có một Thành Công không đủ, mà phải cả trăm, nghìn cơ sở thành phố tiến mạnh vào mục tiêu chống quan liêu bao cấp, tháo gỡ để sản xuất bung ra”.
Đồng chí đề nghị cần mở rộng cơ chế tự chủ ở nhiều xí nghiệp, nhiều loại hình sở hữu khác nhau. Đồng chí đồng ý hình thức sinh hoạt diễn đàn gọi là Câu lạc bộ giám đốc và cử đồng chí Trưởng ban Công nghiệp Thành ủy làm chủ nhiệm. Những cách nghĩ, cách làm “bật đèn xanh” có tính đột phá, năng động, sáng tạo của đồng chí Nguyễn Văn Linh vừa bảo đảm sản xuất bung ra, vừa tuân thủ, quán triệt các nguyên tắc quản lý nhà nước.
![]() |
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh là người đầu tiên khởi xướng công cuộc đổi mới tại Đại hội VI năm 1986. Ảnh: Chinhphu.vn |
Thành tựu trong 10 năm của TP Hồ Chí Minh cũng như trên phạm vi cả nước (1975-1985) sau này được đồng chí Nguyễn Văn Linh nhắc lại là những bài học lớn về tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm; dám nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Khẳng định chỉ có đổi mới thì mới thấy đúng và thấy hết sự thật, thấy những nhân tố mới để phát huy, những sai lầm để sửa chữa, đồng chí nhấn mạnh: “Phải đấu tranh chống cái cũ, chống bảo thủ, trì trệ, chống giáo điều rập khuôn, chống chủ quan nóng vội, chống tha hóa biến chất, chống những thói quen lỗi thời dai dẳng”.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh coi 10 năm (1975 - 1985) “chúng ta đã trả giá đắt để thu được những hiểu biết và kinh nghiệm ngày nay”. Hiểu biết và kinh nghiệm ngày nay từ “giá đắt” 10 năm sau giải phóng, đó là “phải đổi mới cách nghĩ và cách làm một cách sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực của hoạt động xã hội”; là “phải nhìn thẳng vào sự thật, phải thấy rằng thiếu sót chủ quan của ta là nghiêm trọng và kéo dài. Phải có tinh thần dũng cảm tự phê phán mạnh mẽ và triệt để đổi mới. Không như thế chúng ta sẽ rơi vào tình trạng trì trệ kéo dài với những tai họa thật sự - những tai họa không phải do bản chất của chế độ chúng ta gây ra mà do khuyết điểm của chúng ta gây ra”.
Nói “dám nghĩ, dám nói, dám làm” là cách nói cụ thể, mộc mạc, dễ hiểu, nhưng phải nhận thức rằng “dám” là tư duy, “làm” là hành động, và quan trọng nhất là dám nói, dám làm. Đồng chí Nguyễn Văn Linh nêu rõ: “Nói đến tư duy là nói đến trình độ nắm bắt các quy luật khách quan, nói đến việc suy nghĩ theo đòi hỏi của các quy luật đó và áp dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước, nói đến quá trình sáng tạo đề xuất các ý kiến mới, nói đến việc tìm tòi các biện pháp có hiệu quả cho hành động... Điều này đòi hỏi phải chống chủ nghĩa kinh nghiệm hời hợt trong nhận thức, chống cách suy nghĩ chủ quan, bảo thủ, giáo điều, chống việc tách rời giữa lý luận với thực tiễn. Muốn làm được điều này phải gắn lời nói với việc làm, có nhiệt tình cách mạng cao thống nhất với tri thức khoa học vững chắc, dám nhìn thẳng vào sự thật. Công khai hóa hoạt động, đi sâu đi sát thực tiễn, lấy hiệu quả thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội làm mục đích, biết giải quyết mọi công việc trên cơ sở phát huy quyền làm chủ và tính chủ động của quần chúng nhân dân lao động... Nói cách khác, đổi mới tư duy phải đi liền với đổi mới phong cách, đó là một quá trình thống nhất không thể tách rời”.
Noi theo tư tưởng và tấm gương Bác Hồ, đồng chí Nguyễn Văn Linh chỉ ra được một số cán bộ trung cao cấp “trình độ lý luận thấp, hiểu biết một cách kinh nghiệm, mỗi người một khác, khi chỉ đạo thực tiễn thì tùy tiện điều khiển công việc theo những nhận thức cũ kỹ từ phía tả hay hữu, hoặc dao động từ cực này sang cực khác, mất khả năng phân định đúng sai. Có những cái sai cứ bảo vệ là đúng, có những cái đúng lại gạt bỏ không tiếp thu”(1).
Chỉ có đồng chí mới nói rõ được sự thật “không ít trường hợp rơi vào tình trạng kêu gọi lòng tin, đạo đức trừu tượng mà không kêu gọi được lý trí”(2). Chỉ có đồng chí mới “dám” chỉ ra “không ít người trong chúng ta thường nặng về sử dụng quyền lực, ra lệnh từ trên, coi nhẹ việc thuyết phục, bàn bạc, động viên nhân dân làm.
Thậm chí có người coi việc phát huy dân chủ gây trở ngại cho việc thực hiện nguyên tắc tập trung, hạn chế vai trò của quyền lực”(3). Và đồng chí dẫn lại lời dân chúng nói: “Người chủ gặp “đày tớ” của mình sao mà khó quá!”(4). Chỉ có đồng chí mới “dám” thẳng thắn chỉ ra: “Đảng phải biết nghe dân. Nghe như thế nào? Phải nghe thường xuyên chứ đừng đợi kỳ họp theo lịch; nghe từ cửa miệng nông dân từ xã ấp, thậm chí tại nơi xóm vắng, nghe từ những xóm thợ cần lao, từ người công chức, viên chức, chiến sĩ thấp nhất... Phải luôn luôn đặt ra câu hỏi vì sao quần chúng chưa nói hết, vì sao quần chúng không dám nói, vì sao quần chúng nói không cụ thể, không chính xác”(5).
Trung tâm tỉnh lỵ Hưng Yên, quê hương cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. |
Từ di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến tinh thần của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Đại hội XIII của Đảng nói tới đào tạo cán bộ “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo...”. Tinh thần, thái độ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung của đồng chí Nguyễn Văn Linh là tài sản quý của Đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên. Với cái tâm trong sáng vì nước, vì dân, “dám” trong tư duy và hành động trên cơ sở lý luận khoa học, xuất phát từ thực tiễn với nhận thức đúng quy luật, thuận lòng dân, hợp xu thế thời đại là sự đột phá, một động lực quan trọng đưa tới thành công của cách mạng, của công cuộc đổi mới.
PGS, TS BÙI ĐÌNH PHONG, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
-------------------------------------------
(1),(2),(3),(4),(5). Chương trình viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước: Nguyễn Văn Linh tiểu sử, Sđd, tr.236-238.
Nguồn: https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tiep-lua-truyen-thong/tong-bi-thu-nguyen-van-linh-tam-guong-nguoi-can-bo-dam-nghi-dam-noi-dam-lam-vi-loi-ich-chung-834820
Bình luận (0)