Cầm trên tay tập bản thảo có tên gọi “Phía quê nhà” của Bùi Minh Huệ, gồm 53 bài thơ khá dày dặn viết về Tổ quốc, về Đảng, về danh nhân, về làng quê, về cha mẹ, về thiên nhiên, về những người con…, dẫu viết về đề tài gì, đối tượng nào, thời gian, không gian ra sao thì xuyên suốt các bài thơ của chị là một âm điệu trữ tình.

Bùi Minh Huệ sinh năm 1964, là con út của gia đình 3 chị em gái. Lên ba tuổi, người cha của chị, một diễn viên Đoàn Văn công nhân dân Hà Tĩnh hy sinh trên đường đi biểu diễn về. Người mẹ gồng gánh, bồng bế 3 người con nhỏ đi sơ tán. Tuổi ấu thơ của Bùi Minh Huệ bắt đầu những tháng ngày buồn. Người mẹ Thao thức đêm trường/ Thờ chồng một dạ, khói hương giữ lòng, với vòng khăn tang trắng trên đầu, đòn gánh tre dạn vai gầy, chợ xa, chợ gần, làm lụng, che chắn, bao dung, dưỡng dục đàn con thơ trẻ. Thời kỳ gian nan ấy làm nên một tâm hồn Bùi Minh Huệ nhạy cảm trước mọi sự chung quanh, trắc ẩn trước nước mắt và tiếng khóc của người anh em, một Bùi Minh Huệ luôn thao thức trước ân nghĩa Tổ quốc, quê hương, gia đình đã nuôi dưỡng mình lớn lên, trưởng thành. Bùi Minh Huệ mượn ý thơ Nguyễn Trãi để nhắc mình: Thắp nén hương nhớ đất trời một thuở/ Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày/ Bánh thời có nhân, người thì có nghĩa…
1… Trước khi Bùi Minh Huệ làm thơ đã có nhiều bài thơ của các nhà thơ nổi tiếng viết về đất nước, Bác Hồ, danh nhân sống trong trí nhớ bao thế hệ người Việt. Bùi Minh Huệ không thể không biết điều ấy, không thể không run bút khi viết về những “đề tài lớn lao” mà nhiều người đã viết. Nhưng những gì mình kính trọng, ngưỡng vọng đã cho Bùi Minh Huệ tự tin thực hiện ý tưởng của mình bằng con chữ. “Tổ quốc vào Xuân”, “Lời cờ sao”, “Với sen”, “Ngôi sao đã tắt”, “Chiều Côn Sơn”… bộc lộ được một lối đi riêng, tuy chưa định hình thành phong cách, nhưng thuyết phục được bạn đọc ở sự chân thành qua ngôn ngữ thơ giản dị, miêu tả những điều giản dị, cụ thể, cạnh sát con người: Tổ quốc là tiếng ầu ơ của mẹ/ Rặng tre rì rào ngọn gió nồm nam/ Tổ quốc xanh trong dé lúa nhành cam/ Trong nắng biển sáng mai, hoàng hôn chiều núi biếc. (Tổ quốc vào xuân).

Đến “Dòng người trước Lăng Bác” thì cái cụ thể được mở rộng, nâng cao mang tính khái quát, nhưng tác giả vẫn làm chủ được ngôn ngữ trong biểu cảm tư tưởng của chính mình: Như thế, dòng người bất tận/ Đi từ ngàn năm Âu Cơ, Lạc Hồng/ Đi từ những ngày đói cơm rách áo/ Cuồn cuộn rừng cờ, trào dâng thác lũ/ Máu chảy về tim/ Sông xuôi ra biển/ Khao khát gặp Người vô bờ thương mến/ Bất tận dòng người, bất tận tình yêu… Đây là những câu thơ tạo nên âm điệu tha thiết của thi ca, của tinh thần kính trọng lãnh tụ kính yêu.
2… Mỗi người viết có một góc nhìn hiện thực, một cách cảm nhận riêng. Bùi Minh Huệ thấu hiểu bản chất và bản sắc của quê hương mình: “Thành phố của tôi”, “Với quê Thạch Ngọc”, “Gửi về Can Lộc”, “Đồng chiều”, “Đi chợ”- là những bài thơ nghiêng về khuynh hướng tả thực bằng chi tiết, hình ảnh quen thuộc và ngôn từ gần với tiếng nói dân gian: Những chuyện cấy cày, ló má/ Em nghe chẳng thấy quen tai/ Lâu rồi cũng thành lo lắng/ Chiêm mùa, trời hạn, giêng hai… Người quê quen sương quen nắng/ Cười như thác đổ xe đi (Với quê Thạch Ngọc). Ngỡ như làng quê cứ thao thức, cứ canh cánh trong lòng một nỗi ngóng trông: “Phía ấy là quê, phía ấy là nhà/ Mùa hạ nắng nung, gió lào rát mặt/ Mùa thu mưa lũ trắng trời” (Phía quê nhà).

Với Bùi Minh Huệ, quê hương và cha mẹ là một, một tình yêu thương, một biết ơn sinh thành, một mối nợ không bao giờ trả hết. Hình ảnh Áo cha bạc màu năm tháng/ Lưng mẹ ướt đẫm mồ hôi cứ ám ảnh người đọc về nỗi vất vả, sự hy sinh của bậc làm cha, làm mẹ. Núi Hồng thương nhớ trĩu vai/ Sông Lam mắt ngấn đôi bờ (Phía quê nhà). Bài “Hoa cỏ trên mộ cha”, nhiều chi tiết tả thực bằng ngôn ngữ giản dị, không có vẻ gì của tu từ: Chiều nay con đến nghĩa trang/ Lặng thinh ngọn gió… từng hàng bia mộ âm thầm… Tuổi ấu thơ con đã thành trung niên nhưng người cha thì đã đi theo ngọn khói hương, chỉ còn đây hoa cỏ vấn vương giữa đời… đã gieo một nỗi buồn vào tâm tư người đọc. Và ta bỗng se lòng trước một cô gái trẻ côi cút giữa những bông hoa cỏ Li ti đốm trắng, lặng thầm trong lời người cha dặn dò Đừng khóc than động gió mưa . Đây là lời của cha vụt hiện trong ký ức, hay lời của cuộc đời dạy Bùi Minh Huệ?
Và khi sống đủ đầy dưới trời xanh, mây trắng, giữa hương sắc thành phố Người như hoa rực rỡ những ngôi nhà, trong Sương khói bồng phiêu, trầm hương lãng đãng/ Bàn thờ tổ tiên hoa đăng rực sáng (Đi dọc phố xuân), người con không nguôi day dứt và ân hận vì những gì mình từng làm mẹ phiền lòng, mình từng mắc nợ ân nghĩa với các bậc sinh thành… Bùi Minh Huệ nghẹn ngào gọi mẹ: Tết này mẹ ở nơi xa/ Năm cùng tháng tận về nhà mẹ ơi!

Cũng với mạch cảm xúc như thế, trong tập Phía quê nhà còn những trang viết phập phồng hơi thở của người mẹ với con (Gửi con về nội, Hà Nội nhớ con, Ngày mai con vào lớp một…), những trang đầy hương, sắc về thiên nhiên (Mùa hạ, Vàng thu, Chờ thu, Mùa xuân ấm áp, Biển…). Trang thơ nào cũng hiển hiện một Bùi Minh Huệ mẫn cảm, tinh tế với mọi sự, mọi người.
Nguồn: https://baohatinh.vn/bui-minh-hue-tinh-yeu-thuong-lam-nen-guong-mat-nha-tho-post293838.html
Bình luận (0)