
Nhìn nhận từ thực tế
Toàn thành phố Đà Nẵng hiện có 3.354 cơ sở giáo dục, 509 trường học đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 41,1%, trong đó mầm non có 192 trường, tiểu học 158 trường, THCS 146 trường và THPT 13 trường. Hệ thống trường lớp được quan tâm đầu tư xây dựng, đảm bảo điều kiện tối thiểu cho việc dạy và học, quy mô trường lớp từ mầm non đến THPT ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được đầu tư đúng mức…
Sau hợp nhất, thành phố Đà Nẵng có 3 trường chuyên, bao gồm Trường THPT chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (phường Bàn Thạch), THPT chuyên Lê Thánh Tông (phường Hội An Tây) và THPT chuyên Lê Quý Đôn (phường An Hải). Cả 3 trường có tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp THPT năm 2025 đạt 100%, có nhiều học sinh đoạt nhiều giải cao trong các kỳ thi cấp quốc gia, khu vực và kỳ thi Olympic Toán quốc tế…
Có thể nói, giáo dục của thành phố sau hợp nhất có bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản đáp ứng yêu cầu đổi mới và xu thế hội nhập quốc tế và khu vực. Tuy nhiên, phát triển giáo dục của thành phố sau hợp nhất vẫn gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải vượt qua. Đó là tình trạng thiếu giáo viên ở miền núi vẫn còn nhiều, một số trường ở miền núi phải hợp đồng thêm giáo viên nhưng dạy trái môn, chưa đủ chuẩn…

Bên cạnh đó, do trường lớp còn phân tán ở các thôn, nóc xa xôi, giao thông cách trở nên việc tuyển dụng giáo viên còn khó khăn, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc triển khai dạy và học cho năm học mới 2025. Cơ sở vật chất, trang thiết bị cho một số trường ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thiếu, xuống cấp; việc thực hiện chuyển đổi số cho một số trường THCS, THPT ở vùng cao còn khó do hệ thống mạng chưa đảm bảo…
Nghị quyết số 71-NQ/TW 2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đã đề ra 6 quan điểm cụ thể: (1) Nhận thức sâu sắc, đầy đủ và thực hiện nhất quán quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. (2) Phát triển giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. (3) Nhà nước giữ vai trò định hướng chiến lược, kiến tạo phát triển, bảo đảm nguồn lực và công bằng trong giáo dục; bảo đảm đủ trường, đủ lớp, đủ giáo viên đáp ứng nhu cầu học tập của người dân. (4) Toàn xã hội có trách nhiệm chăm lo, tham gia đóng góp nguồn lực và giám sát phát triển giáo dục. (5) Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục, đào tạo. (6) Người học là trung tâm, là chủ thể của quá trình giáo dục và đào tạo.
“Học đi đôi với hành”, “lý thuyết gắn liền với thực tiễn”; đột phá phát triển giáo dục và đào tạo phải bắt đầu từ đổi mới tư duy, nhận thức và thể chế, bảo đảm Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, lấy đầu tư công dẫn dắt, thu hút nguồn lực xã hội cho hiện đại hóa toàn diện hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục công lập là trụ cột; xây dựng nền giáo dục mở, liên thông, bảo đảm cơ hội học tập công bằng, bình đẳng cho mọi người, thúc đẩy học tập suốt đời.
Kỳ vọng từ Nghị quyết số 71
Nghị quyết số 71-NQ/TW đề ra mục tiêu đến năm 2030 xây dựng mạng lưới trường lớp cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh thuộc mọi đối tượng, vùng miền; có ít nhất 80% số trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3-5 tuổi và giáo dục bắt buộc hết THCS; chỉ số giáo dục đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) đạt trên 0,8.

Nghị quyết số 71 cũng đề ra 8 nhóm giải pháp, trong đó có một số giải pháp mà ngành giáo dục thành phố cần quan tâm xem xét thời gian tới. Trong đó, chú trọng nghiên cứu có cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội cho phát triển giáo dục và đào tạo của thành phố.
Kịp thời tham mưu HĐND tỉnh sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các nghị quyết của HĐND tỉnh về chính sách cho trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo Nghị định số 66 ngày 12/3/2025 của Chính phủ về quy định chính sách cho trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo và cơ sở giáo dục có trẻ em nhà trẻ, học sinh hưởng chính sách.
Qua đó nhằm đảm bảo các cơ chế, chính sách triển khai thực hiện thông suốt, kịp thời, không bị gián đoạn, giảm thiểu tình trạng bỏ học và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục phù hợp với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với UBND các xã, phường sớm rà soát đội ngũ giáo viên, nhu cầu cụ thể ở các cấp học theo phân cấp, tham mưu kế hoạch tổ chức thi tuyển để đảm bảo có đủ giáo viên đứng lớp năm học mới 2025 - 2026.
Đồng thời tham mưu chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội cho đội ngũ nhà giáo, nhất là chính sách thu hút giáo viên về miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số để giảng dạy; nâng phụ cấp ưu đãi nghề đối với cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông theo tinh thần đề ra của Nghị quyết số 71.
Cơ quan chức năng tham mưu UBND thành phố thực hiện phân cấp, ủy quyền một số nhiệm vụ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo theo quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025. Xây dựng cơ chế, chính sách đủ mạnh khuyến khích tổ chức, doanh nghiệp đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo và các chính sách hỗ trợ tài chính, tín dụng ưu đãi cho người học trên tinh thần “không để học sinh nào của thành phố bỏ học vì điều kiện tài chính”.
Tập trung chuyển đổi số toàn diện, phổ cập và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong các trường học. Tăng cường việc dạy và học ngoại ngữ, nâng chuẩn tiếng Anh cho giáo viên và học sinh các cấp học.
Có thể nói, Nghị quyết số 71 của Bộ Chính trị là cơ sở, tiền đề để thành phố Đà Nẵng xây dựng cơ chế chính sách đặc thù trong bối cảnh vừa hợp nhất, phù hợp với đặc điểm, thực trạng phát triển của ngành giáo dục thành phố thời gian qua.
Vì vậy để nâng tầm giáo dục đào tạo của thành phố, xứng tầm là thành phố động lực, năng động nhất của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, ngành giáo dục, các cấp, ngành cần sớm tham mưu, ban hành nghị quyết đặc thù của thành phố để cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu và giải pháp của Nghị quyết số 71 đã đề ra.
Nguồn: https://baodanang.vn/co-hoi-but-pha-phat-trien-giao-duc-da-nang-3302719.html
Bình luận (0)