Chủ trương của Đảng ta về xây dựng nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp chỉ đạo và định hướng cho sự phát triển của nền đối ngoại, ngoại giao nước Việt Nam hiện đại(1). Kế thừa tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác đối ngoại, trải qua quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng với sự phát triển của đất nước và biến chuyển của tình hình quốc tế, Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam. Bước vào thời kỳ Đổi mới, Đảng ta từng bước cụ thể hóa, hoàn thiện cơ sở lý luận xây dựng nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại. Đại hội VI (năm 1986) của Đảng lần đầu tiên làm rõ chủ thể của từng nhóm hoạt động đối ngoại của Việt Nam gồm: “Đảng ta”, “Nhà nước ta” và “Nhân dân ta”. Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 20-5-1988, của Bộ Chính trị khóa VI, chính thức đặt nền móng xây dựng nền đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới khi chủ trương xây dựng “một nền đối ngoại rộng mở”(2). Kể từ đó, qua các kỳ đại hội, Đảng ta tiếp tục hoàn thiện các thành tố của nền đối ngoại Việt Nam, đề cập toàn diện, cụ thể các trụ cột trong hoạt động đối ngoại Việt Nam. Đến Đại hội XIII (năm 2021), tư duy về nền đối ngoại, ngoại giao của Đảng ta có bước phát triển mới khi đưa ra chủ trương “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”(3).
Tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc lần đầu tiên (tháng 12-2021) được tổ chức tại Hà Nội đưa ra khái niệm, nhiệm vụ xây dựng một nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, trở thành một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng đối với cả hệ thống chính trị, đó là “xây dựng và phát triển một nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại và mang đậm bản sắc dân tộc - trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam””(4). Đây là một chủ trương đúng đắn, cho thấy sự phát triển nhận thức của Đảng ta cả về mặt lý luận và thực tiễn, hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện và tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Về lý luận, trên thế giới, đối ngoại là khái niệm phổ biến không chỉ đối với các chính đảng, các quốc gia đơn đảng, mà còn đối với cả các nước đa đảng, tổ chức quốc tế lớn như Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)... Nhiệm vụ chính của công tác đối ngoại là: 1- Xây dựng đường lối, định hướng chiến lược về hoạt động đối ngoại, ngoại giao trên cơ sở mục tiêu chính trị chung; 2- Kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện đường lối đối ngoại trong hệ thống chính trị, phù hợp với mục tiêu chính trị chung. Hay nói cách khác, đối ngoại là quan hệ của các chủ thể trong toàn bộ hệ thống chính trị bên trong quốc gia với bên ngoài, mang tính toàn diện, từ quan hệ kinh tế, viện trợ phát triển tới đối ngoại, quốc phòng, an ninh(5). Ngoại giao là một phần trong đối ngoại của quốc gia, đóng vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện đường lối đối ngoại. Tại Việt Nam, hệ thống chính trị thống nhất dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, việc xác định chủ trương xây dựng nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam là một bước đột phá về lý luận, vừa phù hợp với điều kiện, hệ thống chính trị của đất nước, vừa phù hợp với nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, tiến trình hội nhập quốc tế và vị thế quốc tế của Đảng ta và đất nước ta, góp phần tận dụng tốt thời cơ và chuyển hóa thách thức trong bối cảnh mới.
Về thực tiễn, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(6), là động lực, nguồn lực quan trọng để đất nước ta tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững. Tiềm lực đất nước nâng cao với quy mô kinh tế không ngừng được mở rộng, trình độ phát triển được nâng lên trên mức trung bình của khu vực và toàn cầu. Mặt trận đối ngoại rộng mở, vị thế, uy tín quốc tế của đất nước được nâng cao… Tuy nhiên, Đại hội XIII của Đảng cũng thẳng thắn nhìn nhận, “thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo”(7), đòi hỏi cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, dự báo chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình, chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống. Yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao toàn diện, hiện đại thể hiện rõ quyết tâm tiếp tục công cuộc đổi mới, là bước phát triển đột phá, kịp thời, phù hợp với điều kiện của Việt Nam, cũng như bối cảnh quốc tế.
Khẳng định nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại
Trên cơ sở chủ trương của Đảng, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, hệ thống chính trị đã đẩy mạnh công tác nghiên cứu, triển khai xây dựng nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam thời kỳ đổi mới. Theo đó, nội hàm của nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp đã được cụ thể hóa với những định hướng quan trọng:
Thứ nhất, nền đối ngoại, ngoại giao được xây dựng với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân với vị trí, vai trò và sự phân vai cụ thể. Trong đó, đối ngoại đảng có vai trò định hướng chiến lược tổng thể, xác định chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại của Đảng, góp phần xây dựng nền tảng chính trị vững chắc và điều kiện thuận lợi cho quan hệ của Việt Nam với các nước. Ngoại giao nhà nước đóng vai trò nòng cốt trong thể chế hóa và tổ chức thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, là kênh quan hệ ngoại giao chính thức giữa Nhà nước Việt Nam với các nước. Đối ngoại nhân dân đảm trách vai trò nòng cốt trong tăng cường hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước, là kênh đối ngoại “tâm công” có ảnh hưởng, tác động vào lòng người bằng chính nghĩa, lẽ phải, đạo lý và nhân văn.
Thứ hai, là nền đối ngoại, ngoại giao đặc sắc và độc đáo, kế thừa truyền thống dân tộc. Theo đó, công tác đối ngoại, ngoại giao vừa kiên định về nguyên tắc, vừa uyển chuyển về sách lược; mềm mại, khôn khéo nhưng kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, can trường trước mọi khó khăn, thử thách, vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân; đoàn kết, nhân ái nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, ông cha ta luôn chú trọng hoạt động đối ngoại, lấy hòa bình, hòa hiếu và hữu nghị làm cốt lõi, đề cao lòng nhân ái, vị tha, tạo nên truyền thống và bản sắc độc đáo của nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam đầy hào khí, giàu tính nhân văn.
Thứ ba, là nền đối ngoại, ngoại giao dưới sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng, kim chỉ nam. Tại Đại hội IX, trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh hội nhập quốc tế, Đảng ta đã nêu rõ nhiệm vụ “hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp thực hiện có kết quả nhiệm vụ công tác đối ngoại”(8). Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: “bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại”(9). Định hướng của đại hội đã và đang được tiếp tục cụ thể hóa thông qua nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước, nhất là Quyết định số 272-QĐ/TW, ngày 21-1-2015, của Bộ Chính trị khóa XI, “Về việc ban hành Quy chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại”, khẳng định vị trí đặc biệt quan trọng của công tác đối ngoại với Đảng, đất nước.
Thứ tư, là nền đối ngoại, ngoại giao hiện đại, chuyên nghiệp, đáp ứng với yêu cầu phát triển mới của đất nước, của thời đại. Cùng với quá trình hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, đất nước ta nói riêng và thế giới nói chung đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những thành tựu mới về khoa học - công nghệ, giúp gia tăng kết nối quốc tế. Trong bối cảnh chung, Đảng ta đã kịp thời nắm bắt và phát triển, mở rộng nội hàm của nền đối ngoại Việt Nam có tính hiện đại, vừa có kết cấu hạ tầng vật chất - kỹ thuật hiện đại, vừa có tính chuyên nghiệp, trình độ, năng lực thích ứng cao, tổ chức bộ máy khoa học, tinh gọn, phương thức vận hành hiệu quả, góp phần kịp thời nắm bắt, tận dụng hiệu quả cơ hội, hạn chế tối đa thách thức, hỗ trợ tích cực công tác hội nhập của đất nước, nhất là trong các lĩnh vực mới như trí tuệ nhân tạo (AI), kinh tế số, kinh tế xanh…
Ghi nhận kết quả tích cực
Trên cơ sở chủ trương đúng đắn của Đảng, kể từ sau Đại hội XIII đến nay, cả hệ thống chính trị đã chủ động, tích cực tham gia xây dựng nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, đưa đối ngoại trở thành một điểm sáng trong thành tựu phát triển chung của đất nước.
Nhận thức của cả hệ thống chính trị về vai trò, nhiệm vụ của đối ngoại được nâng lên. Các trụ cột đối ngoại và các cơ quan trực tiếp thực hiện công tác đối ngoại ngày càng coi trọng và xác định xây dựng nền đối ngoại, ngoại giao toàn diện, hiện đại là nhiệm vụ trọng tâm và ưu tiên hàng đầu. Công tác đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các trụ cột được đẩy mạnh, đóng góp tích cực vào công tác chung của đối ngoại Việt Nam.
Hoạt động đối ngoại được triển khai thống nhất. Dưới sự lãnh đạo thống nhất, trực tiếp của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước, các trụ cột trong nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam ngày càng tích cực tham gia, chủ động đóng góp vào các hoạt động đối ngoại chung, phát huy tốt vai trò “kiến tạo” trong công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế của đất nước. Công tác tổ chức các hoạt động đối ngoại cấp cao, nhất là của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ngày càng nền nếp, chuyên nghiệp, có sự tham gia, đóng góp hiệu quả của tất cả các trụ cột, các lĩnh vực, các cơ quan Trung ương và địa phương, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nâng cao hiệu quả của từng hoạt động đối ngoại.
Hợp tác trên các lĩnh vực đối ngoại quốc phòng, đối ngoại an ninh, đối ngoại kinh tế, đối ngoại chính trị, đối ngoại văn hóa, khoa học - công nghệ, tôn giáo… được đẩy mạnh, góp phần bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Việt Nam ngày càng tự tin, đảm nhận vai trò quan trọng tại các tổ chức khu vực và quốc tế như Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025, thành viên Hội đồng Chấp hành Cơ quan Liên hợp quốc về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ nhiệm kỳ 2025 - 2027... Việt Nam tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế với quy mô lớn, phức tạp, lần đầu tiên đăng cai tổ chức, như: Triển lãm Quốc phòng quốc tế (năm 2022, năm 2024); Hội nghị Nghị sĩ trẻ toàn cầu lần thứ 9 (năm 2023); Hội nghị toàn cầu lần thứ 4 Hệ thống lương thực, thực phẩm bền vững (năm 2023); Diễn đàn Tương lai ASEAN (năm 2024, năm 2025)… Việc Đại hội đồng Liên hợp quốc chọn Việt Nam là địa điểm tổ chức Lễ ký Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng vào năm 2025 đánh dấu một mốc mới trong công tác hội nhập pháp lý quốc tế nói riêng và đối ngoại đa phương của Việt Nam nói chung, khẳng định Việt Nam là đối tác tích cực, tin cậy và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Bên cạnh đó, đối ngoại, ngoại giao Việt Nam ghi nhận nhiều điểm sáng: Một là, làm sâu sắc quan hệ, tăng cường tin cậy chính trị giữa Việt Nam với các đối tác thông qua tổ chức triển khai nhiều hoạt động trao đổi đoàn, hội nghị mang tính lịch sử, góp phần quan trọng nâng cao vị thế, uy tín của Đảng, của đất nước, nhất là với các nước láng giềng, các nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các nước trong khu vực và bạn bè quốc tế. Hai là, phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển, học hỏi kinh nghiệm quốc tế và thu hút nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển đất nước. Ba là, nâng cấp quan hệ với nhiều nước, đối tác, cũng như ký kết nhiều thỏa thuận hợp tác quan trọng, tạo hành lang khuôn khổ pháp lý cho hợp tác quốc tế. Đến nay, Việt Nam có quan hệ với 194 quốc gia và vùng lãnh thổ; thiết lập quan hệ đối tác toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với 35 quốc gia; thiết lập quan hệ 259 chính đảng ở 119 quốc gia trên thế giới. Bốn là, thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của đất nước. Việt Nam tích cực tham gia và đóng góp có trách nhiệm vào các công việc chung quốc tế, như cắt giảm khí thải, chống biến đổi khí hậu; cử hàng trăm lượt cán bộ, chiến sĩ quân đội và công an tham gia thực hiện sứ mệnh giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc...
Tuy nhiên, việc triển khai xây dựng, phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại thời gian qua vẫn còn một số hạn chế, chưa phát huy hết tiềm lực đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Mặc dù nhận thức về xây dựng nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam được nâng lên, song sự quan tâm, đầu tư của một số ban, bộ, ngành, địa phương chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ, dẫn đến việc nhận thức và năng lực hội nhập quốc tế chưa đồng đều, chưa khai thác và phát huy hiệu quả tiềm năng hợp tác trong các mối quan hệ lợi ích đan xen với các đối tác; hiệu quả thực hiện một số thỏa thuận hợp tác chưa đạt yêu cầu. Sự phối hợp, kết hợp giữa các trụ cột đối ngoại, giữa đối ngoại với các lĩnh vực khác, giữa một số ban, bộ, ngành, địa phương trong công tác đối ngoại còn thiếu chặt chẽ, dẫn tới công tác đối ngoại, ngoại giao có mặt, có lúc chưa theo kịp những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, chưa lường hết những tác động bất lợi…
Nỗ lực thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng
Thế giới và khu vực đang chứng kiến những chuyển động nhanh chóng, tác động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống chính trị, an ninh, kinh tế và xã hội toàn cầu. Leo thang căng thẳng và xung đột giữa các quốc gia tăng lên mức cao. Hợp tác quốc tế và các định chế đa phương đứng trước nhiều thách thức chưa từng có khi lòng tin giữa các quốc gia đang dần bị thay thế bởi đối đầu và nghi kỵ. Chủ nghĩa đa phương mở được thúc đẩy bởi tiến trình toàn cầu hóa mạnh mẽ trong hơn 3 thập niên qua đang bị xói mòn. Các thách thức an ninh phi truyền thống và an ninh truyền thống đan xen ngày càng phức tạp, làm cho môi trường an ninh và phát triển của khu vực châu Á - Thái Bình Dương phức tạp và khó dự báo hơn bao giờ hết.
Để vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của công tác đối ngoại từ nay đến hết nhiệm kỳ, như Đại hội XIII của Đảng đã đề ra: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(10), việc xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam cần tiếp tục được coi là nhiệm vụ trọng tâm của công tác đối ngoại, tạo nền tảng vững chắc để triển khai hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, với một số phương hướng sau:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh công tác quán triệt, nâng cao nhận thức về nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp trong toàn bộ hệ thống chính trị, đất nước; luôn quan tâm xây dựng sự đoàn kết, đồng thuận trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Sự nghiệp làm nên bởi chữ Đồng”(11).
Thứ hai, làm tốt hơn nữa công tác tổ chức, triển khai chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển nền đối ngoại, ngoại giao toàn diện, hiện đại; giữ vững đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chú trọng công tác phối hợp giữa các trụ cột đối ngoại, giữa đối ngoại với các lĩnh vực khác như quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ.., giữa Trung ương và địa phương, giữa đối ngoại đa phương và song phương, phát huy cao nhất tiềm lực của đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, hoàn thiện nội hàm nền đối ngoại, ngoại giao toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp và thể chế quản lý phù hợp với điều kiện, hệ thống chính trị đất nước và bối cảnh thời đại, trong đó tập trung xử lý tốt mối quan hệ giữa đối nội và đối ngoại, cũng như mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của các cơ quan làm công tác đối ngoại. Việc hoàn thiện cơ sở lý luận sẽ tạo nền tảng vững chắc để ngành ngoại giao khẳng định vai trò chủ lực, tự tin thực hiện các chiến lược, kế hoạch, tiến tới hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đặt ra với đối ngoại, ngoại giao Việt Nam.
Thứ tư, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ số, công nghệ thông tin trong xây dựng nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam, tận dụng và phát huy những thành quả của khoa học - công nghệ, đổi mới phương pháp, cách thức làm việc, hướng tới sự chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu quả. Tăng cường các hoạt động đối ngoại trực tuyến, điện đàm, nhất là giữa các lãnh đạo cấp cao, vừa góp phần gia tăng tiếp xúc, trao đổi, vừa kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số tại các cơ quan trực tiếp làm công tác đối ngoại, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ công, phát triển dữ liệu số phục vụ công tác đối ngoại.
Thứ năm, tiếp tục thực hiện hiệu quả việc sắp xếp tổ chức, bộ máy các cơ quan làm công tác đối ngoại theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, để phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của các lực lượng làm công tác đối ngoại; tăng cường xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại dưới sự lãnh đạo thống nhất, trực tiếp của Đảng, quản lý tập trung của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới khi công tác đối ngoại được xác định là trọng yếu, thường xuyên(12). Đồng thời, triển khai hiệu quả Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 24-1-2025, của Bộ Chính trị, “Về hội nhập quốc tế trong tình hình mới”, góp phần đưa đất nước vững bước tiến lên, bước vào kỷ nguyên mới./.
------------------------
(1), (2) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 7, 25
(3), (6), (7), (10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. I, tr. 162, 10, 105, 161 - 162
(4) Xem: “Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc”, Báo điện tử Chính phủ, ngày 14-12-2021, https://baochinhphu.vn/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-hoi-nghi-doi-ngoai-toan-quoc-102305526.htm
(5) Tapio Raunio: “Chính trị đảng phái hay lợi ích (siêu) quốc gia? Bỏ phiếu trong công tác đối ngoại tại Nghị viện châu Âu”, Foreign Policy Analysis, 2020, https://academic.oup.com/fpa/article/16/4/515/5911933
(8) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. t. 60, tr. 209
(9) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 65, tr. 212
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 279
(12) Xem: Phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống (1-11-1949 - 1-11-2024) của Ban Đối ngoại Trung ương, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 28-10-2024, https://www.tapchicongsan. org.vn/web/guest/tin-tieu-diem/-/asset_publisher/s5L7xhQiJeKe/content/ trong-ky-nguyen-moi-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-doi-ngoai-dang-phai-phat-huy-cao-do-truyen-thong-ve-vang-vuon-len-nhung-tam-cao-moi-de-hoan-thanh-#
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/1137002/day-manh-nen-ngoai-giao-viet-nam-toan-dien%2C-hien-dai%2C-vung-tam-the-buoc-vao-ky-nguyen-phat-trien-moi-cua-dan-toc.aspx
Bình luận (0)