Rút ngắn khoảng cách miền núi - đô thị
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng khó, Quảng Ninh xác định hạ tầng giao thông là đòn bẩy then chốt để tạo ra sự bứt phá. Tỉnh đã tập trung nguồn lực lớn, triển khai nhiều dự án trọng điểm nhằm xóa “điểm nghẽn” về kết nối, rút ngắn khoảng cách giữa miền núi, biên giới với trung tâm kinh tế, đô thị.
Trong số các công trình giao thông trọng điểm, tuyến tỉnh lộ 341 (QL18C) từ KKT cửa khẩu Móng Cái đến KKT cửa khẩu Bắc Phong Sinh là minh chứng rõ nét cho quyết tâm đầu tư hạ tầng vùng khó. Tuyến đường dài 35,26km, đi qua nhiều xã miền núi, biên giới vốn gặp khó khăn về giao thông. Trước đây người dân đi lại gian nan, vận chuyển hàng hóa chậm trễ, chi phí cao. Sau khi được hoàn thành và đưa vào sử dụng tháng 9/2023, con đường này đã thực sự “mở lối” cho vùng biên.
Nhờ có tuyến đường mới, người dân các xã vùng cao có tuyến tỉnh lộ 341 đi qua thuận tiện hơn trong kết nối với trung tâm; việc buôn bán nông sản, trao đổi hàng hóa cũng nhanh chóng, an toàn hơn. Nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số đã có điều kiện tiếp cận thị trường, tìm đầu ra ổn định cho sản phẩm, qua đó cải thiện thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống. Không chỉ góp phần xóa đói giảm nghèo, công trình còn mở ra cơ hội để đồng bào tham gia sâu hơn vào các hoạt động kinh tế cửa khẩu, từng bước vươn lên làm giàu ngay trên quê hương mình.
Bên cạnh giá trị kinh tế, tuyến tỉnh lộ 341 còn giúp rút ngắn khoảng cách phát triển giữa vùng biên với khu vực trung tâm, tạo điều kiện để đồng bào tiếp cận tốt hơn với dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa. Công trình này không chỉ là con đường của giao thương, mà còn là con đường của sự đổi thay, mở ra nhiều kỳ vọng mới cho các xã miền núi, biên giới trên hành trình phát triển.
Sau tuyến tỉnh lộ 341, tháng 9/2023, một công trình giao thông quan trọng khác cũng được khởi công là dự án cải tạo, nâng cấp đường tỉnh 342 nối Hạ Long - Ba Chẽ - Lạng Sơn với chiều dài 20,9km, rộng 9m, thiết kế theo tiêu chuẩn cấp III miền núi. Dự án có tổng mức đầu tư hơn 800 tỷ đồng từ ngân sách tỉnh, gồm 4 cầu lớn (Thác Dạ, Thác Chạ, Khe Lũ, Khe Lào) và hệ thống hạ tầng đồng bộ bảo đảm an toàn giao thông. Sau hơn một năm thi công, tuyến đường đã hoàn thành, đáp ứng tiến độ và yêu cầu kỹ thuật, trở thành “mạch nối” mới cho vùng cao Quảng Ninh.
Việc thông tuyến giúp giảm đáng kể quãng đường, thời gian di chuyển giữa khu vực Hạ Long - Lạng Sơn, đồng thời hình thành hành lang giao thông liên hoàn nối Quảng Ninh với Lạng Sơn và Bắc Ninh. Nhờ đó, đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực huyện Ba Chẽ cũ có điều kiện tiếp cận thị trường thuận lợi hơn, giá trị nông - lâm sản được nâng cao, đời sống người dân ngày càng cải thiện. Tuyến đường cũng góp phần quan trọng trong thu hút đầu tư, mở rộng không gian phát triển, tạo động lực để khu vực này sớm trở thành trung tâm kinh tế lâm nghiệp, dược liệu gắn với du lịch sinh thái, dịch vụ nông thôn hiện đại.
Không chỉ mang lại lợi ích về kinh tế, tỉnh lộ 342 còn khẳng định sự quan tâm đặc biệt của Quảng Ninh đối với miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là minh chứng sinh động cho chủ trương đầu tư hạ tầng đến những nơi còn nhiều khó khăn, nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng bao trùm, để mọi người dân đều được thụ hưởng thành quả đổi thay.
Nếu tuyến tỉnh lộ 341 và 342 được hoàn thành đã mang lại những đổi thay rõ rệt cho vùng cao, thì việc khởi công tỉnh lộ 330 dịp Quốc khánh vừa qua lại tiếp tục mở ra kỳ vọng mới về diện mạo hạ tầng miền núi Quảng Ninh trong tương lai gần. Công trình có chiều dài gần 21km, tổng vốn đầu tư 987 tỷ đồng từ ngân sách tỉnh, đi qua địa bàn xã Ba Chẽ đến nút giao với tỉnh lộ 342. Đây là tuyến đường giữ vai trò huyết mạch, kết nối trực tiếp vùng cao Ba Chẽ, Kỳ Thượng với trung tâm tỉnh và các tỉnh lân cận như Lạng Sơn, Bắc Ninh, tạo nên mạch giao thông thông suốt giữa vùng động lực và vùng khó.
Khác với tuyến cũ vốn chật hẹp, nhiều cua tay áo, dốc cao tiềm ẩn nguy hiểm, dự án tỉnh lộ 330 được thiết kế theo tiêu chuẩn cấp III miền núi, với nền đường rộng 9m, mặt thảm bê tông nhựa. Nhiều hạng mục hiện đại như cầu vượt sông, cầu cạn, tường chắn, nắn chỉnh hướng tuyến cũng sẽ được triển khai để xử lý triệt để những đoạn cong nguy hiểm, bảo đảm an toàn và thuận lợi cho giao thông. Đây không chỉ là sự cải thiện về kỹ thuật, mà còn là lời cam kết đưa đồng bào vùng cao đến gần hơn với điều kiện đi lại ngang bằng khu vực đồng bằng, đô thị.
Ý nghĩa lớn nhất của công trình không dừng ở việc rút ngắn quãng đường di chuyển. Với đồng bào dân tộc thiểu số ở Ba Chẽ và Kỳ Thượng, con đường mới chính là cơ hội thoát khỏi vòng luẩn quẩn của khó khăn trong giao thương, mở lối đưa nông sản, dược liệu, sản phẩm lâm nghiệp đến thị trường rộng lớn hơn. Khi việc vận chuyển hàng hóa trở nên thuận lợi, giá trị kinh tế của sản phẩm địa phương được nâng cao, từ đó góp phần cải thiện thu nhập, nâng chất lượng cuộc sống cho người dân.
Không chỉ thế, tuyến tỉnh lộ 330 còn có vai trò quan trọng trong kết nối phát triển vùng. Khi hoàn thành, tuyến đường sẽ bổ sung một mắt xích quan trọng trong mạng lưới hạ tầng giao thông đồng bộ của Quảng Ninh, tạo hành lang liên kết kinh tế giữa Hạ Long - Ba Chẽ - Lạng Sơn. Đây là điều kiện để thu hút thêm nhiều dự án đầu tư, dịch vụ du lịch, phát triển kinh tế lâm nghiệp, dược liệu gắn với bảo tồn thiên nhiên, qua đó biến tiềm năng của vùng núi trở thành lợi thế cạnh tranh thực sự.
Trên hết, việc khởi công dự án vào dịp Quốc khánh 2/9 có ý nghĩa chính trị - xã hội đặc biệt, thể hiện cam kết của Đảng bộ, chính quyền Quảng Ninh trong việc ưu tiên nguồn lực cho những địa bàn khó khăn nhất. Đây không chỉ là con đường bê tông hóa giữa núi rừng, mà còn là con đường của niềm tin, khát vọng vươn lên của đồng bào dân tộc thiểu số. Nó mở ra hy vọng rằng trong tương lai gần, vùng cao Quảng Ninh sẽ không còn là “vùng trũng” phát triển, mà trở thành một phần hòa nhịp trong bức tranh chung giàu đẹp, hiện đại và bền vững của tỉnh.
Vùng khó thay đổi từng ngày
Nếu hạ tầng giao thông được coi là “đòn bẩy” mở đường cho phát triển, thì sự thay đổi toàn diện của vùng khó chỉ thật sự được khẳng định khi đi kèm với đầu tư đồng bộ vào những yếu tố thiết yếu khác như điện, nước, thông tin, y tế, giáo dục, văn hóa. Chính vì vậy, những năm qua, Quảng Ninh đã dành nguồn lực rất lớn để phủ kín và nâng cao chất lượng các dịch vụ hạ tầng cơ bản ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Mục tiêu không chỉ là xây dựng đường sá, mà còn tạo dựng nền tảng sống hiện đại, bền vững cho mọi người dân, giúp họ tiếp cận bình đẳng với các cơ hội phát triển.
Thực hiện Nghị quyết số 16/2021/NQ-HĐND và Nghị quyết số 06-NQ/TU, giai đoạn 2021-2025, tỉnh đã bố trí tới 4.200 tỷ đồng vốn đầu tư công ngân sách tỉnh cho các xã, thôn, bản vùng DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo, đạt 100% kế hoạch trung hạn. Đây là mức đầu tư thể hiện rõ sự ưu tiên, cho thấy việc nâng cao hạ tầng vùng khó không phải là giải pháp tạm thời, mà là một chiến lược lâu dài, có tầm nhìn đến năm 2030.
Không chỉ dừng ở ngân sách tỉnh, Quảng Ninh còn huy động tổng lực các nguồn vốn khác. Trong 5 năm, tổng nguồn lực cho phát triển vùng khó đạt trên 120.203 tỷ đồng. Trong đó, vốn tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn chiếm tới 81,11% với hơn 97.000 tỷ đồng; ngân sách các cấp đóng góp hơn 6.400 tỷ đồng; vốn lồng ghép từ nhiều chương trình, dự án gần 15.000 tỷ đồng. Cùng với đó, sự tham gia của doanh nghiệp, hợp tác xã, các nguồn vốn hợp pháp khác. Có thể thấy, việc phát triển vùng DTTS, miền núi không chỉ dựa vào ngân sách nhà nước, mà đã trở thành sự nghiệp chung, có sự góp sức của toàn xã hội.
Từ nguồn lực mạnh mẽ này, diện mạo vùng khó ở Quảng Ninh đã có những đổi thay căn bản. Một trong những thành tựu nổi bật là 100% hộ dân trên địa bàn đã được sử dụng điện an toàn, ổn định. Điện không chỉ thắp sáng các bản làng xa xôi, mà còn phục vụ sản xuất, kinh doanh, mở đường cho ứng dụng khoa học kỹ thuật, thúc đẩy kinh tế hộ gia đình, kinh tế cộng đồng phát triển.
Cùng với điện, hạ tầng cấp nước được chú trọng. Đến nay, 99,99% hộ gia đình nông thôn được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh, trong đó trên 85,5% được tiếp cận nước sạch đạt chuẩn theo quy định. Đặc biệt, tỷ lệ hộ đồng bào DTTS được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 100%. Đây là yếu tố quan trọng để bảo đảm sức khỏe, nâng cao chất lượng sống, giảm thiểu bệnh tật ở vùng sâu, vùng xa - nơi trước đây thường xuyên chịu cảnh thiếu nước sạch, phải sử dụng nguồn nước khe, suối tiềm ẩn nguy cơ mất vệ sinh.
Trong lĩnh vực thông tin - truyền thông, Quảng Ninh đã cơ bản xóa được các “vùng lõm” sóng điện thoại, truyền hình. Hiện 100% thôn, bản có sóng di động, 100% dân số được phủ sóng 4G, với trên 6.359 trạm BTS được lắp đặt trên toàn tỉnh. Internet, điện thoại di động giờ đã trở thành công cụ quen thuộc không chỉ cho việc liên lạc, mà còn mở ra cơ hội học tập, tiếp cận thông tin, thương mại điện tử cho đồng bào miền núi.
Song song với hạ tầng “cứng”, Quảng Ninh cũng đặc biệt quan tâm đến hạ tầng xã hội. Trong giai đoạn 2021-2025, tỉnh đã đầu tư sửa chữa, nâng cấp 24 trường học các cấp, đồng thời hỗ trợ xây dựng mới các trường chất lượng cao. Nhờ vậy, con em vùng DTTS có điều kiện học tập trong môi trường tốt hơn, tiếp cận phương pháp giáo dục hiện đại, tạo nền tảng cho sự phát triển lâu dài của nguồn nhân lực tại chỗ.
Về y tế, nhiều bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện được nâng cấp, trang thiết bị hiện đại hơn. Điều này giúp đồng bào vùng sâu, vùng xa tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng mà không phải di chuyển xa. Cùng với đó, hệ thống nhà văn hóa, trung tâm sinh hoạt cộng đồng cũng được đầu tư đồng bộ. Đến nay, 100% thôn, bản vùng DTTS có nhà văn hóa, trở thành nơi gắn kết cộng đồng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời nâng cao đời sống tinh thần cho người dân.
Ngoài những thiết chế cơ bản, tỉnh còn chú trọng đầu tư hạ tầng thương mại, dịch vụ ở nông thôn, miền núi. Các chợ trung tâm, điểm giao dịch được xây dựng, cải tạo, giúp đồng bào tiêu thụ sản phẩm dễ dàng hơn, tiếp cận hàng hóa đa dạng, giá cả hợp lý. Đây là bước đi quan trọng để thúc đẩy kinh tế nông thôn, tạo điều kiện cho sản phẩm địa phương vươn ra thị trường rộng lớn, từng bước hội nhập vào chuỗi giá trị chung.
Song hành với đó là hạ tầng thủy lợi, phòng chống thiên tai, vốn rất quan trọng với địa bàn miền núi. Việc xây dựng, nâng cấp các công trình thủy lợi, hồ đập, kè chống sạt lở không chỉ bảo đảm sản xuất nông nghiệp, mà còn góp phần bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản của nhân dân trước thiên tai, biến đổi khí hậu.
Có thể thấy, những con số và công trình đã hoàn thành chính là minh chứng sinh động cho quyết tâm của Quảng Ninh. Đầu tư cho vùng khó không chỉ là sự ưu tiên ngân sách, mà còn là cách thể hiện trách nhiệm của tỉnh trong việc phát triển hài hòa, không để vùng nào, người nào bị bỏ lại phía sau.
Những ngôi trường mới, trạm y tế khang trang, hệ thống điện, nước, viễn thông phủ sóng đến từng bản làng… đã và đang góp phần thay đổi căn bản diện mạo miền núi, vùng đồng bào DTTS. Quan trọng hơn là mang lại cho người dân nơi đây niềm tin và khát vọng rằng con em họ được học tập trong điều kiện tốt hơn, có cơ hội tiếp cận thông tin, việc làm; khát vọng về một cuộc sống ấm no, sung túc ngay trên mảnh đất quê hương.
Chính nhờ những nỗ lực đó, Quảng Ninh không chỉ khẳng định vị trí tiên phong trong phát triển kinh tế - xã hội, mà còn trở thành điểm sáng trong công tác chăm lo cho vùng khó. Đây là minh chứng rõ ràng cho đường lối phát triển bao trùm, lấy con người làm trung tâm, mọi người dân dù ở miền núi, biên giới hay hải đảo đều được thụ hưởng thành quả đổi thay.
Nguồn: https://baoquangninh.vn/don-bay-phat-trien-cho-vung-kho-3374887.html
Bình luận (0)