Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế ở Việt Nam

TCCS - Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, quốc phòng, an ninh, chủ quyền đất nước được giữ vững. Cùng với quá trình đổi mới, Việt Nam đã xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập ngày càng sâu, rộng vào khu vực và toàn cầu. Những kết quả đạt được trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng vào thành tựu chung của đất nước.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản08/06/2025

Tổng Bí thư Tô Lâm và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước tham quan Triển lãm "Những thành tựu trong phát triển kinh tế tư nhân và các gian hàng trưng bày sản phẩm của các doanh nghiệp tư nhân"_Nguồn: nhandan.vn

Một số vấn đề lý luận về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là chủ trương xuyên suốt trong đường lối đổi mới của Đảng ta và đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng. Nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế là nền kinh tế bảo đảm được ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế, có những ngành kinh tế nền tảng phát triển, trước hết là các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp hỗ trợ bảo đảm cho đất nước tham gia hiệu quả vào hội nhập quốc tế trên cở sở phát huy lợi thế so sánh, giảm thiểu được sự phụ thuộc vào nước ngoài về công nghệ, nguồn lực, thị trường, chống chịu tốt với rủi ro từ các cú sốc bên ngoài, bảo vệ tối đa lợi ích quốc gia - dân tộc.

Trong Cương lĩnh và Văn kiện của Đảng luôn nhấn mạnh mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập tích cực, sâu, rộng vào khu vực và thế giới. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, trong bất cứ hoàn cảnh nào cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực”(1). Báo cáo chính trị Đại hội XI của Đảng khẳng định nguyên tắc độc lập, tự chủ gắn với đoàn kết và hợp tác quốc tế là nguyên tắc cốt lõi, bảo đảm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực. Trong đó, độc lập, tự chủ, nội lực là cơ sở, nền tảng để bảo đảm hợp tác có hiệu quả. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đưa ra phương hướng cụ thể trên các mặt của hoạt động đối ngoại nhằm đưa đất nước hội nhập sâu, rộng vào khu vực và toàn cầu trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục khẳng định những nội dung nêu trên, cụ thể hóa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế cho từng thời kỳ phát triển của đất nước. Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(2). “Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế” được xác định là một trong mười mối quan hệ lớn cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt.

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế là xây dựng nền kinh tế có thực lực và khả năng phát triển, có thể tự đứng vững, bảo đảm an toàn, ít bị tổn thương và ứng phó thành công với những tác động tiêu cực từ bên ngoài của quá trình hội nhập quốc tế. Nội dung để xác định một nền kinh tế độc lập, tự chủ được thể hiện ở nhiều khía cạnh cụ thể khác nhau, trong đó có những nội dung chủ yếu sau: 1- Có đường lối, thể chế, chính sách phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế đúng đắn, hiệu quả, không bị lệ thuộc bên ngoài, phù hợp thực tiễn đất nước và xu thế phát triển thế giới; 2- Nền kinh tế có quy mô, tốc độ tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững, có cơ cấu kinh tế hợp lý và khả năng cạnh tranh cao; 3- Có hệ thống các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, liên thông giữa thị trường trong nước và quốc tế để bảo đảm cho nền kinh tế vận hành thông suốt; 4- Xây dựng được một hệ thống dự trữ, điều tiết cung, cầu những hàng hóa, sản phẩm thiết yếu, chiến lược để bảo đảm khả năng độc lập, tự chủ, chủ động ứng phó khi có khủng hoảng, can thiệp hoặc nguy cơ đe dọa đến nền kinh tế từ bên ngoài; 5- Xây dựng được những ngành công nghiệp nền tảng, mũi nhọn có trình độ khoa học - kỹ thuật tiên tiến, năng lực công nghệ cao; có nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu phát triển, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao; 6- Bảo đảm an toàn, bền vững những ngành, lĩnh vực then chốt, huyết mạch của nền kinh tế như tài chính, tiền tệ, ngân hàng, năng lượng, tài nguyên, giao thông vận tải...

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là bộ phận quan trọng, nền tảng để xây dựng, bảo vệ độc lập, tự chủ mọi mặt của đất nước và có mối quan hệ biện chứng, tất yếu, khách quan, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy và hỗ trợ lẫn nhau với hội nhập quốc tế. Mỗi quốc gia phải có độc lập, tự chủ mới có thể chủ động hội nhập quốc tế và như vậy hội nhập quốc tế mới đem lại hiệu quả và thành công. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế phát triển mạnh mẽ như hiện nay, không có quốc gia nào có thể đứng ngoài, tự cô lập mà phát triển được. Hội nhập quốc tế là yêu cầu tất yếu, khách quan để phát triển đối với mọi quốc gia, dù lớn hay nhỏ. Có độc lập, tự chủ mới có thể chủ động tham gia, lựa chọn sự tham gia để đáp ứng được lợi ích quốc gia - dân tộc. Ngược lại, đất nước không thể phát triển tốt, phát huy được tiềm năng và lợi thế so sánh, phát huy nội lực, tranh thủ nguồn lực bên ngoài nếu không có quan hệ hợp tác sâu, rộng với quốc tế. Độc lập, tự chủ là tiền đề, là điều kiện để hội nhập quốc tế và hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho đất nước phát triển tốt hơn, có điều kiện bảo đảm cho độc lập, tự chủ. Hội nhập quốc tế còn tạo ra môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển.

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn kết chặt chẽ với phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, phát triển con người, phát triển xã hội, củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh; góp phần bảo đảm nguồn lực hiện đại hóa quân đội, xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại.

Thực tiễn xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Việt Nam từng bước xây dựng nền kinh tế ngày càng vững mạnh, hội nhập sâu, rộng vào khu vực và thế giới. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ thể hiện ở việc giữ vững độc lập, tự chủ trong xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển, phát huy tiềm năng, lợi thế của đất nước. Các quan điểm, chủ trương của Đảng được thể chế hóa thành luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, triển khai thực hiện đạt được nhiều kết quả tích cực. Kinh tế vĩ mô luôn được duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, tăng trưởng kinh tế tuy chưa đạt được mục tiêu đề ra nhưng vẫn ở mức cao so với khu vực và thế giới, chất lượng tăng trưởng được nâng cao, các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện. Quy mô kinh tế được mở rộng, thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực, năm 2023 quy mô kinh tế của Việt Nam đứng thứ 34 của thế giới, vị trí thứ 5 trong khu vực  Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Khả năng chống chịu của nền kinh tế mạnh mẽ hơn. Năm 2010, quy mô tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 2.739,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 147 tỷ USD; năm 2019, GDP đạt 7.707,2 nghìn tỷ đồng, tương đương 334 tỷ USD; năm 2023, GDP đạt 10.221,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 430 tỷ USD. Khoảng cách quy mô kinh tế của Việt Nam so với các nước trong khu vực được thu hẹp đáng kể. Năm 2010, GDP của Hàn Quốc gấp 7,77 lần, Thái Lan gấp 2,32 lần, Malaysia gấp 1,73 lần, Singapore gấp 1,63 lần, Philippines gấp 1,42 lần quy mô GDP của Việt Nam thì đến năm 2023, quy mô GDP của Việt Nam đã vượt Malaysia 1,1 lần, với Hàn quốc còn là 3,99 lần, Thái Lan 1,2 lần, Singapore 1,16 lần, tương đương với quy mô GDP của Philippines. Chất lượng tăng trưởng cũng không ngừng được cải thiện, thể hiện ở các chỉ số năng suất nhân tố tổng hợp (TFP), hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) về cơ bản đều thay đổi theo hướng tích cực. Đồng thời, Việt Nam cũng chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và đạt nhiều kết quả nổi bật. Việt Nam có quy mô thương mại đứng thứ 20 toàn cầu, có quan hệ thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, tham gia vào nhiều định chế quốc tế và khu vực. Việt Nam đã xây dựng được mạng lưới 30 đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, trong đó có tất cả các nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, 17/20 thành viên nhóm các nền kinh tế lớn (G20), toàn bộ các nước ASEAN. Việt Nam chủ động đàm phán, ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), đã ký và thực thi 16 FTA, đang đàm phán 3 FTA và là quốc gia duy nhất ký kết hiệp định thương mại tự do với tất cả các đối tác kinh tế lớn trên toàn cầu, như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Liên minh châu Âu (EU), Anh, Nga... Việt Nam đã và đang tích cực tham gia quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, thực hiện sứ mệnh gìn giữ hòa bình (PKO) của Liên hợp quốc… Việt Nam cũng hội nhập sâu, rộng vào các tổ chức, định chế, hiệp định kinh tế, thương mại khu vực và toàn cầu. Ngoài lĩnh vực kinh tế, Việt Nam còn tích cực, chủ động hội nhập vào các lĩnh vực khác, như chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh... Kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam tăng nhanh. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2024 sơ bộ đạt 405,53 tỷ USD, tăng 14,3% so với năm 2023. Cán cân thương mại của Việt Nam trong năm 2024 tiếp tục duy trì mức xuất siêu cao. Mặc dù nhập khẩu tăng mạnh, nhưng xuất khẩu vẫn giữ được đà tăng trưởng, giúp cán cân thương mại  duy trì mức thặng dư. Tính chung cả năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 24,77 tỷ USD nhờ tăng trưởng xuất khẩu ổn định và giảm thiểu nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu. Đây là năm thứ 9 liên tiếp cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam đạt xuất siêu(3). Hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào hầu hết các nước phát triển có yêu cầu khắt khe về chất lượng, như Mỹ, EU, Nhật Bản; tạo ra cơ hội, động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế đất nước.

Thực lực nền kinh tế được nâng cao. Việt Nam thu hút được một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế, thông qua đó, công nghệ mới, ngành nghề mới, sản phẩm mới, mô hình quản lý kinh doanh mới xuất hiện; tạo ra hàng triệu việc làm, thu nhập cho người lao động; đưa sản xuất trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu, tạo ra lượng lớn hàng xuất khẩu, mở ra thị trường, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước; đồng thời, còn tạo điều kiện, động lực cho doanh nghiệp trong nước phát triển… Cùng với các dự án FDI, đất nước còn thu hút được nguồn vốn đầu tư gián tiếp, nguồn vốn hợp tác phát triển chính thức (ODA), cung cấp một nguồn vốn không nhỏ cho nền kinh tế, góp phần nâng cao tiềm lực nền kinh tế, đóng góp quan trọng vào những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới.

Tuy nhiên, độc lập, tự chủ kinh tế của đất nước chưa vững chắc và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế còn một số hạn chế thể hiện ở một số vấn đề sau:

Một là, hệ thống thể chế thiếu đồng bộ, còn nhiều chồng chéo, vướng mắc, chậm được hoàn thiện. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực chính cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển đất nước, thiếu các ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ chiến lược làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Hai là, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, nguồn lực đầu tư. Tỷ lệ tiết kiệm so với GDP giảm dần và đang thấp hơn nhiều nước. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, năm 2010, tỷ lệ tiết kiệm so với GDP của Việt Nam đạt 33,4%, năm 2020, năm 2021 lần lượt là 32,6% và 32,8%; tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại còn cao. Các cân đối vĩ mô chưa thật sự vững chắc. Việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển theo chiều sâu còn chậm. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp so với nhiều nước ASEAN và trên thế giới. Doanh nghiệp trong nước phần lớn là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ công nghệ chưa cao, năng lực tài chính và quản trị còn hạn chế.

Ba là, giá trị gia tăng của xuất khẩu thấp, phụ thuộc nhiều vào FDI và một số ít thị trường. Năng lực cạnh tranh, năng lực tự chủ chiến lược, sức chống chịu của nền kinh tế chưa cao. Phần lớn dự án đầu tư nước ngoài thu hút trong giai đoạn đầu có công nghệ trung bình, sử dụng nhiều lao động phổ thông, trình độ thấp, và khai thác nhiều tài nguyên, tận dụng lao động giá rẻ, thiếu liên kết, chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước. Cán cân thương mại hàng hóa của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn xuất siêu và có xu hướng tăng mạnh qua các năm, trong khi cán cân thương mại của các doanh nghiệp trong nước luôn nhập siêu ở mức cao. Năm 2010, xuất siêu của khu vực FDI là 2,2 tỷ USD, đến năm 2023 xuất siêu của khu vực này đạt mức 50 tỷ USD, gấp 23 lần; tổng mức xuất siêu giai đoạn 2010 - 2023 là 344,4 tỷ USD, chiếm 11,6% tổng kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn này. Khu vực trong nước liên tục nhập siêu, tăng từ 14,8 tỷ USD năm 2010 lên 21,6 tỷ USD năm 2023. Tổng mức nhập siêu là 283,6 tỷ USD, chiếm 9,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Những hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do những hạn chế, yếu kém trong quản lý kinh tế của Nhà nước và sự phát triển của doanh nghiệp trong nước chưa đáp ứng yêu cầu. Luật pháp, chính sách còn chưa hoàn thiện, thiếu ổn định; chiến lược, quy hoạch, kế hoạch chưa đáp ứng yêu cầu, còn gây khó khăn cho các hoạt động kinh tế. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước cồng kềnh, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của nhiều cơ quan chưa được phân định rõ ràng, còn có tình trạng chồng chéo. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức thiếu chuyên nghiệp, năng lực và phẩm chất chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Bên cạnh đó, khu vực doanh nghiệp trong nước có năng lực cạnh tranh chưa cao, chưa có nhiều tập đoàn đủ mạnh về mọi mặt, đặc biệt là về khoa học, công nghệ và quản trị để có sức cạnh tranh trên toàn cầu.

Dây chuyền chế biến tôm xuất khẩu ở nhà máy của Tập đoàn thuỷ sản Minh Phú_Ảnh: TTXVN

Quan điểm, giải pháp xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong bối cảnh mới

Về bối cảnh quốc tế, nhìn một cách tổng thể trên thế giới, hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn; đồng thời, là nguyện vọng, là mục đích của cộng đồng quốc tế. Toàn cầu hóa vẫn tiếp diễn với những khác biệt so với giai đoạn trước về: Tốc độ chậm hơn; phương cách gắn liền với những toan tính chặt chẽ hơn về lợi ích quốc gia và các liên minh chính trị; một số lĩnh vực trong khoa học, công nghệ, sản xuất sẽ bị chi phối mạnh mẽ bởi các yếu tố chính trị. Cục diện thế giới sẽ chuyển biến nhanh hơn theo xu hướng đa cực, đa trung tâm và nhiều khả năng hình thành song tuyến; các nước lớn hay nhỏ đều điều chỉnh chiến lược đối ngoại theo hướng đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục tác động sâu sắc đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi toàn cầu. Các vấn đề toàn cầu, an ninh và phát triển tiếp tục diễn biến phức tạp, khó dự báo. Việc Mỹ dự kiến áp thuế đối ứng cao đối với Việt Nam sẽ gây những áp lực và khó khăn lớn đối với nền kinh tế nước ta.

Về bối cảnh trong nước, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước ta ngày càng nâng lên, tạo tiền đề quan trọng để xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình đổi mới, Việt Nam hội nhập quốc tế sâu, rộng và sẽ phải tiếp tục thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Tuy nhiên, nền kinh tế phát triển chưa thật sự bền vững, còn nhiều hạn chế, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới.

Bối cảnh mới tạo ra cơ hội mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, tham gia quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế; tạo ra cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường lớn, thu hút mạnh mẽ FDI và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài… góp phần nâng cao độc lập, tự chủ của nền kinh tế; nhưng đồng thời cũng tạo ra thách thứcnguy cơ lệ thuộc vào bên ngoài. Những năm tới, khi các cam kết quốc tế có hiệu lực, thực hiện đầy đủ việc mở cửa nền kinh tế, Việt Nam sẽ tiếp tục mở cửa nhiều hơn với thị trường thế giới. Các tác động tiêu cực từ bên ngoài, như khủng hoảng kinh tế; chiến tranh thương mại; giá dầu, lạm phát cao; dịch chuyển dòng vốn đầu tư… đối với kinh tế Việt Nam cũng sẽ ngày càng sâu sắc hơn. Đồng thời, mở cửa nền kinh tế cũng cho phép các chủ thể, doanh nghiêp nước ngoài dễ dàng thâm nhập vào nền kinh tế, chiếm lĩnh, thao túng thị trường trong nước. Trong hội nhập quốc tế, khi bị phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài sẽ dẫn đến trường hợp doanh nghiệp trong nước nếu không đủ sức mạnh dễ bị sức ép cạnh tranh, bị thua thiệt, bị thâu tóm. Việc thu hút đầu tư nước ngoài thiếu chọn lọc dễ dẫn đến các vấn đề xã hội, ô nhiễm môi trường... Hội nhập quốc tế đòi hỏi quản lý phát triển phải toàn diện hơn, việc xây dựng, ban hành pháp luật, chính sách phải tính đầy đủ các thông lệ, điều ước quốc tế đã ký kết.

Quan điểm của Đảng trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện, sâu rộng, gồm:

Một là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là nội dung quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng, là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Hội nhập quốc tế là động lực cho phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, góp phần quan trọng để huy động được sức mạnh của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, tận dụng được lợi thế của nước đi sau để phát triển nhanh và bền vững.

Hai là, thực hiện nhất quán chủ trương phát triển nhanh và bền vững đất nước, trong đó chú trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trên nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, hiện đại làm nền tảng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Ba là, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi và vì sự tiến bộ, phát triển, hòa bình của nhân loại, vì hạnh phúc của con người là mục tiêu tối thượng trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.

Một số giải pháp

Thứ nhất, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, trước hết tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực, phẩm chất, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong giai đoạn mới và tập trung phát triển, nâng cao tiềm lực khoa học, công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực của đất nước.

Thứ hai, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Sử dụng linh hoạt, chủ động các công cụ chính sách như tiền tệ, tài khóa, cùng với các chính sách khác để bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Tập trung cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Coi phát triển khoa học, công nghệ là đột phá trong phát triển. Phải từng bước làm chủ được một số công nghệ mới, công nghệ nguồn có tính quyết định độc lập, tự chủ của nền kinh tế đất nước.

Thứ ba, phát triển nền công nghiệp quốc gia hiện đại, vững mạnh dựa trên việc bảo đảm có các ngành công nghiệp nền tảng vững chắc, các ngành công nghệ cao, công nghệ mũi nhọn tiên phong, như công nghệ số, công nghệ xanh và các ngành công nghiệp còn nhiều lợi thế phát triển với việc áp dụng công nghệ, kỹ thuật sản xuất hiện đại, chủ động về nguyên liệu, công nghệ sản xuất và thị trường. Trong đó, cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, tận dụng tốt nhất các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ tư, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển, trọng tâm là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng khung khổ pháp lý nhằm phát triển nhanh và bền vững đất nước, bảo đảm năng lực độc lập, tự chủ của nền kinh tế, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động hình thành các thể chế, chính sách khuyến khích đa dạng hóa thị trường xuất, nhập khẩu, thu hút và quản lý có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Xây dựng thể chế để bảo vệ thị trường trong nước, ngăn ngừa, giảm thiểu tác động tiêu cực từ các cú sốc bên ngoài. Đổi mới chính sách đầu tư, ưu tiên và tập trung hợp lý các nguồn lực nhà nước về con người, đất đai, tài chính, khoa học, công nghệ để phát triển vững chắc các ngành công nghiệp nền tảng, các ngành công nghệ ưu tiên và công nghệ mũi nhọn.

Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, các nội dung hiệp định thương mại tự do và hiệp định đầu tư đã ký kết; tận dụng và phát huy tốt những mặt thuận lợi và hạn chế đến mức thấp nhất những tác động bất lợi của xu thế tự do hóa kinh tế, tự do hóa thương mại toàn cầu. Cần tận dụng, cụ thể hóa kết quả nâng cấp quan hệ với các nước lớn và các đối tác quan trọng theo chiều sâu, không chỉ trong kinh tế, văn hóa, xã hội, mà trong cả chính trị, an ninh, quốc phòng. Tích cực đàm phán về thuế với Mỹ trên tinh thần thiện trí, thẳng thắn, tôn trọng thể chế hài hòa và cân bằng lợi ích, cũng như phù hợp với cam kết quốc tế và trình độ phát triển của mỗi nước.

Thứ sáu, phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế trong nước để giảm thiểu sự phụ thuộc vào khu vực FDI, trong đó, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, cùng với kinh tế nhà nước (là chủ đạo, dẫn dắt), kinh tế tập thể tạo thành “thế kiềng ba chân” vững chắc cho nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập thành công. Có chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện tốt nhất để xây dựng một số tập đoàn kinh tế nhà nước và tập đoàn kinh tế tư nhân Việt Nam mạnh, làm chủ được công nghệ sản xuất hiện đại, có năng lực tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu, làm đầu tàu kết nối, hỗ trợ phát triển hệ thống doanh nghiệp trong nước và chủ động thúc đẩy hợp tác, liên kết trong khu vực, trên thế giới. Đổi mới mạnh mẽ chính sách thu hút đầu tư nước ngoài nhằm chọn lọc các nhà đầu tư có tiềm lực mạnh về vốn, công nghệ tiên tiến, có sức cạnh tranh cao và bảo đảm khả năng, điều kiện chuyển giao công nghệ, thúc đẩy sự phát triển hệ thống doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, kết nối có hiệu quả giữa khu vực doanh nghiệp trong nước với khu vực FDI. Kiên quyết ngăn chặn những dự án có công nghệ thấp, lạc hậu, thâm dụng lao động, đất đai, năng lượng, gây ô nhiễm môi trường.

Thứ bảy, tích hợp, gắn kết, đồng bộ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với chiến lược bảo vệ Tổ quốc, an ninh quốc gia và chiến lược hội nhập quốc tế để trở thành một tổng thể thống nhất, có hiệu lực và hiệu quả cao. Nâng cao năng lực phân tích, dự báo chiến lược, nhận diện sớm các động thái, xu hướng lớn của nền kinh tế thế giới, từ đó có những điều chỉnh đúng đắn trong chiến lược phát triển, thực hiện những bước đột phá về cơ cấu, tận dụng triệt để những cơ hội mới mở ra. Xây dựng chiến lược hội nhập cho giai đoạn đến 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt trọng tâm vào việc tăng cường năng lực tự chủ quốc gia. Lộ trình hội nhập quốc tế được thiết kế phù hợp với tiến trình cải cách, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

---------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr 66
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr. 162
(3) Tổng cục Thống kê: Bức tranh xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2024 - Phục hồi, phát triển và những kỷ lục mới, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2025/01/buc-tranh-xuat-nhap-khau-hang-hoa-cua-viet-nam-nam-2024-phuc-hoi-phat-trien-va-nhung-ky-luc-moi/#:~:text=N%C4%83m%202024%2C%20t%E1%BB%95ng%20kim%20ng%E1%BA%A1ch,si%C3%AAu%2024%2C77%20t%E1%BB%B7%20USD.

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/1092802/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-xay-dung-nen-kinh-te-doc-lap%2C-tu-chu-va-tich-cuc%2C-chu-dong-hoi-nhap-quoc-te-o-viet-nam.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

Việt Nam - Ba Lan vẽ nên 'bản giao hưởng ánh sáng' trên bầu trời Đà Nẵng
Cây cầu gỗ ven biển Thanh Hoá gây sốt nhờ góc ngắm hoàng hôn đẹp như ở Phú Quốc
Nét đẹp nữ chiến sĩ sao vuông và du kích miền Nam trong nắng hạ Thủ đô
Mùa hội rừng ở Cúc Phương

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm