Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Phát triển du lịch văn hóa ở vùng chiến khu Việt Bắc - Thực trạng và giải pháp

TCCS - Vùng chiến khu Việt Bắc có nhiều tiềm năng phát triển du lịch văn hóa, tuy nhiên, việc khai thác tiềm năng của vùng cho phát triển du lịch còn hạn chế, sản phẩm du lịch văn hóa chưa được khai thác hiệu quả. Điều này đặt ra yêu cầu tiếp tục nghiên cứu về phương diện quản lý, tổ chức, chính sách phát triển văn hóa, quảng bá, quy hoạch phát triển du lịch văn hóa và sự tham gia của cộng đồng dân cư.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản08/06/2025

Thực trạng và tiềm năng khai thác tài nguyên và sản phẩm du lịch văn hóa vùng chiến khu Việt Bắc

Du lịch văn hóa là hình thức du lịch được du khách tìm hiểu, khám phá, trải nghiệm giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể tại điểm đến, bao gồm di sản lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật, phong tục, tín ngưỡng, ẩm thực và lối sống cộng đồng. Theo Luật Du lịch năm 2017 (Điều 3), du lịch văn hóa là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở khai thác giá trị văn hóa, góp phần bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống, tôn vinh giá trị văn hóa mới của nhân loại.

Vùng chiến khu Việt Bắc bao gồm sáu tỉnh: Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, là vùng căn cứ địa cách mạng, có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, quân sự trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngày nay, vùng đất này là điểm đến hấp dẫn cho hoạt động về nguồn, kết hợp du lịch văn hóa, lịch sử, thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Vùng chiến khu Việt Bắc có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, hệ thống di tích cách mạng, di tích lịch sử văn hóa, làng nghề, lễ hội truyền thống, ẩm thực, nghệ thuật trình diễn mang tính dân gian, tập quán, tín ngưỡng.

Đua bè mảng trên sông Kỳ Cùng (tỉnh Lạng Sơn)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Các yếu tố này là nền tảng để phát triển du lịch văn hóa, gắn với bảo tồn di sản, phát triển kinh tế và xây dựng nông thôn mới. Trong thời gian qua, các tỉnh trong vùng đã có nhiều nỗ lực phát triển du lịch, tiêu biểu là chương trình “Qua những miền di sản Việt Bắc” được tổ chức thường niên từ năm 2009, góp phần quảng bá hình ảnh vùng chiến khu Việt Bắc. Tuy nhiên, hoạt động du lịch văn hóa vẫn chưa thực sự phát huy hết tiềm năng; sản phẩm du lịch còn chưa phong phú, hạ tầng hạn chế, sự tham gia của cộng đồng còn hạn chế, nguồn nhân lực đầu tư cho văn hóa du lịch chưa đáp ứng yêu cầu. Do đó, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển du lịch văn hóa vùng chiến khu Việt Bắc là rất cần thiết; trong đó cần chú trọng các nội dung:

Di tích lịch sử - văn hóa: Các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu nhất của vùng là hệ thống địa điểm An toàn khu (ATK), bao gồm Khu di tích Tân Trào (tỉnh Tuyên Quang), ATK Định Hóa (tỉnh Thái Nguyên), ATK Chợ Đồn (tỉnh Bắc Kạn), cùng hàng loạt di tích cách mạng quan trọng khác. Đây là trọng điểm  của du lịch về nguồn, thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến thăm quan, trải nghiệm các chương trình du lịch hoài niệm, du lịch báo công, du lịch lịch sử,..

Tuy nhiên, việc khai thác các di tích ở vùng chiến khu Việt Bắc còn nhiều hạn chế, công tác trùng tu, tôn tạo di tích chủ yếu dừng ở việc xây dựng nhà trưng bày, thiếu đầu tư vào thiết kế không gian, cảnh quan và nghệ thuật kiến trúc để tạo ấn tượng đặc sắc và tính hấp dẫn cho khách du lịch. Công tác quảng bá, kết nối tour, tuyến và xây dựng sản phẩm du lịch văn hóa trải nghiệm chưa được chú trọng.

Ẩm thực truyền thống: Vùng chiến khu Việt Bắc có kho tàng ẩm thực phong phú, mang đậm dấu ấn địa phương. Các món ăn từ động vật, như cua đá (tỉnh Hà Giang), gỏi cá bỗng Sông Lô, mắm cá ruộng Chiêm Hóa (tỉnh Tuyên Quang), cá nướng, khâu nhục, lạp xường (tỉnh Bắc Kạn), lợn quay, vịt quay (các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn), thắng cố (các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn), thịt gác bếp (các tỉnh Bắc Kạn, Cao Bằng),... Các đặc sản tiêu biểu có nguồn gốc từ thực vật cũng rất đa dạng, như bánh chưng Bờ Đậu (tỉnh Thái Nguyên), bánh áp chao (tỉnh Cao Bằng), bánh cuốn, bánh khẩu sli (tỉnh Cao Bằng), cơm lam (các tỉnh Hà Giang,  Tuyên Quang), hạt dẻ (tỉnh Cao Bằng), mèn mén (tỉnh Hà Giang),... Đặc biệt, các loại rượu đặc sản, như rượu Mẫu Sơn (tỉnh Lạng Sơn), rượu ngô (các tỉnh Bắc Kạn, Tuyên Quang), rượu San Lùng (tỉnh Lào Cai) và các loại trà nổi tiếng, như chè Shan tuyết (tỉnh Hà Giang), chè Tân Cương (tỉnh Thái Nguyên),...

Địa điểm đặc thù: Các địa điểm du lịch văn hóa đặc thù thu hút khách du lịch, như cột cờ Lũng Cú, Cột mốc 428 (tỉnh Hà Giang), cảnh quan dọc tuyến vành đai biên giới (các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn) và các điểm cao nổi tiếng khác. Các điểm đến này có tiềm năng lớn để phát triển du lịch mạo hiểm, du lịch khám phá và du lịch biên giới, việc khai thác vẫn còn hạn chế do thiếu hạ tầng, chính sách hợp tác du lịch biên giới với Trung Quốc chưa đồng bộ và bền vững. Sản phẩm du lịch tại các điểm này còn chưa phong phú, thiếu sức hút, đội ngũ hướng dẫn viên chưa chuyên nghiệp.

Địa điểm tôn giáo, tín ngưỡng: Hệ thống cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo phong phú, như Đền Hạ, Đền Thượng, Đền Mẫu Ỷ La (tỉnh Tuyên Quang); Chùa Phù Liễn, Đền Đuổm (tỉnh Thái Nguyên); Chùa Sùng Khánh (tỉnh Hà Giang); Đền An Mã (tỉnh Bắc Kạn); Chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc (tỉnh Cao Bằng); Đền Kỳ Cùng, Chùa Tam Thanh (tỉnh Lạng Sơn) là các điểm đến tâm linh quan trọng. Một số điểm đến tâm linh đã thu hút lượng khách du lịch đến thăm quan lớn; nhưng việc phát triển sản phẩm còn mang tính tự phát, thiếu chiến lược và liên kết vùng giữa các địa phương trong vùng. Sự phụ thuộc vào doanh nghiệp bên ngoài hạn chế và  sự chủ động điểm đến của khách du lịch.

Làng nghề truyền thống: Các làng nghề đặc sắc, như dệt thổ cẩm, làm miến dong (các tỉnh Bắc Kạn, Cao Bằng), nghề chè (các tỉnh Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang,...), chạm bạc (các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng), làm hương (tỉnh Lạng Sơn), đúc đồng (tỉnh Cao Bằng) đều có khả năng kết hợp với du lịch để tạo sản phẩm trải nghiệm hấp dẫn. Quy mô khai thác còn nhỏ lẻ, thiếu tính liên kết vùng và chưa có sản phẩm chung mang tính nhận diện cao. Điều này đòi hỏi sự đầu tư, quy hoạch và phát triển sản phẩm làng nghề, gắn với du lịch văn hóa chưa bền vững.

Lễ hội truyền thống: Các lễ hội, như lễ hội Lồng Tồng, lễ hội Đền Hạ, Đền Thượng (tỉnh Tuyên Quang); lễ hội Cầu mùa người Sán Chay (tỉnh Thái Nguyên); lễ hội hoa Tam giác mạch, chợ tình Khâu Vai (tỉnh Hà Giang); lễ hội tranh đầu pháo, lễ hội Nàng Hai (tỉnh Cao Bằng); lễ hội Kỳ Cùng - Tả Phủ (tỉnh Lạng Sơn) đều mang giá trị văn hóa và tiềm năng du lịch lớn.

Môi trường nông thôn: Các bản làng dân tộc thiểu số, như Pác Ngòi (tỉnh Bắc Kạn), bản Giuồng (tỉnh Cao Bằng), thôn Sủng Là (tỉnh Hà Giang), các làng nghề dệt thổ cẩm (tỉnh Hà Giang), mô hình du lịch cộng đồng gắn với dược liệu (huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang) đã trở thành điểm đến hấp dẫn. Phần lớn sản phẩm du lịch cộng đồng còn ở dạng thô, thiếu cơ sở lưu trú, dịch vụ hỗ trợ và chưa có sự chuyên nghiệp trong hoạt động phục vụ khách du lịch.

Nghệ thuật trình diễn mang tính dân gian, tập quán và tín ngưỡng: Các loại hình nghệ thuật, như hát then, hát sli, hát lượn, múa khèn, các trò chơi dân gian (ném còn, nhảy sạp, kéo co) đều là tài sản văn hóa quý báu của vùng. Đây là nguồn tài nguyên có thể đưa vào chương trình biểu diễn phục vụ khách du lịch, tạo điểm nhấn văn hóa đặc sắc cho các tỉnh trong vùng chiến khu Việt Bắc. Hiện nay, việc tổ chức hoạt động biểu diễn mới chỉ dừng lại ở dịp lễ hội hoặc theo yêu cầu đơn lẻ, chưa trở thành sản phẩm dịch vụ thường xuyên.

Sản phẩm địa phương: Vùng chiến khu Việt Bắc có nhiều sản phẩm OCOP, VietGap nổi tiếng, như trà Tân Cương (tỉnh Thái Nguyên), cam (tỉnh Hà Giang), quýt (tỉnh Cao Bằng), rượu Mẫu Sơn (tỉnh Lạng Sơn). Đây là cơ sở để các tỉnh trong vùng chiến khu Việt Bắc phát triển du lịch mua sắm và du lịch kết hợp thương mại; sản phẩm thương mại địa phương chưa được xây dựng thương hiệu mạnh và hệ thống giới thiệu sản phẩm đến khách du lịch còn manh mún.

Tiếng nói, chữ viết và tri thức dân gian: Các dân tộc thiểu số, như dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mông có hệ thống ngôn ngữ, chữ viết và kho tàng tri thức dân gian phong phú. Đây là tiềm năng lớn để phát triển tour du lịch tìm hiểu văn hóa tại chỗ, du lịch học tập. Song, việc bảo tồn và lồng ghép yếu tố tri thức dân gian vào sản phẩm du lịch còn hạn chế, chưa tạo được điểm nhấn và giá trị gia tăng cho sản phẩm.

Vùng chiến khu Việt Bắc sở hữu nguồn tài nguyên du lịch văn hóa phong phú và đa dạng, nhưng việc khai thác chưa tương xứng với tiềm năng. Sự phát triển bền vững của loại hình du lịch này vẫn còn một số hạn chế và thách thức:

Thứ nhất, hạn chế về vốn đầu tư và hạ tầng. Hầu hết cộng đồng đều thiếu nguồn tài chính để nâng cấp chỗ ở, cải thiện cảnh quan và phát triển dịch vụ hỗ trợ. Đường vào nhiều làng du lịch cộng đồng vẫn còn khó khăn, đặc biệt là vào mùa mưa, làm giảm sức hấp dẫn và sự tiện lợi cho khách du lịch.

Thứ hai, hạn chế về kỹ năng và năng lực chuyên môn trong cộng đồng địa phương. Người dân địa phương nơi phát triển du lịch cộng đồng chủ yếu tham gia du lịch theo cách tự phát, ít được đào tạo chính thức về dịch vụ khách sạn, an toàn, vệ sinh thực phẩm, hướng dẫn viên du lịch và phát triển sản phẩm du lịch. Kỹ năng giao tiếp tiếng Anh và ngoại ngữ khác còn hạn chế, ảnh hưởng đáng kể đến việc chào đón khách du lịch quốc tế.  

Thứ ba, hạn chế về tính sáng tạo. Hầu hết sản phẩm du lịch cộng đồng chỉ dừng lại ở trải nghiệm cơ bản, như ăn đồ ăn địa phương, ngủ nhà dân, tham gia một số hoạt động nông nghiệp đơn giản. Thiếu sự đổi mới theo xu hướng thị trường; sản phẩm mang tính lặp lại, chưa tạo được nét riêng biệt, hấp dẫn khách du lịch quay lại.

Thứ tư, thiếu sự liên kết và chuỗi giá trị du lịch. Sự phối hợp giữa chính quyền địa phương, doanh nghiệp lữ hành và cộng đồng còn rời rạc. Cộng đồng địa phương thường thụ động, thiếu chủ động trong việc tìm kiếm đối tác, thiết lập mối liên kết thị trường. Sự kết nối giữa doanh nghiệp du lịch địa phương với thị trường du lịch, khách du lịch, lao động du lịch còn hạn chế.          

Thứ năm, hạn chế về hoạt động xúc tiến, truyền thông. Hình thức xúc tiến chủ yếu thông qua truyền miệng hoặc ở quy mô nhỏ. Chưa có trang web chuyên biệt hoặc kênh truyền thông số hiện đại, hạn chế khả năng tiếp cận thị trường rộng lớn,...

Hướng dẫn du khách chơi đàn tính trên hồ Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Chính sách phát triển du lịch văn hóa tại vùng chiến khu Việt Bắc

Từ thực tế trên, để khai thác hiệu quả tiềm năng và phát huy lợi thế của khu vực, cần triển khai một hệ thống giải pháp chính sách toàn diện, có sự kết nối liên ngành, liên vùng, và đồng bộ từ quy hoạch, đầu tư, phát triển sản phẩm đến công tác quản lý và bảo tồn Định hướng phát triển được  đề xuất như sau

Phát triển đa dạng hóa sản phẩm du lịch văn hóa

Sản phẩm du lịch văn hóa của Chiến khu Việt Bắc cần được xây dựng theo hệ thống bao gồm ba nhóm: sản phẩm đặc thù, sản phẩm chính và sản phẩm bổ trợ. Sản phẩm đặc thù là sản phẩm có tính độc đáo, không thể thay thế, tiêu biểu là các di tích lịch sử cách mạng, hệ thống An toàn Khu (ATK) và địa điểm ghi dấu chiến công trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Sản phẩm chính bao gồm lễ hội truyền thống, làng nghề, ẩm thực địa phương, dịch vụ chăm sóc sức khỏe cổ truyền, trải nghiệm nông nghiệp và hoạt động thủ công. Sản phẩm bổ trợ phục vụ nhu cầu đa dạng của khách du lịch, như mua sắm, dịch vụ chăm sóc và làm đẹp cơ thể (spa), điểm đăng ký, ghi danh (check-in), teambuilding(1), tổ chức hội nghị, hội thảo,...

Sản phẩm du lịch văn hóa trong khu vực còn sơ khai, thiếu tính hấp dẫn và chưa tạo được sự khác biệt; do đó, cần tổ chức nghiên cứu, phát triển sản phẩm theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, nhưng vẫn giữ được giá trị bản sắc văn hóa truyền thống. Sản phẩm cần bảo đảm chất lượng theo tiêu chuẩn du lịch chung và tiêu chuẩn du lịch cộng đồng của Việt Nam và khu vực ASEAN. Ngoài việc duy trì chương trình thăm quan, về nguồn, giáo dục truyền thống, cần đa dạng hóa sản phẩm bổ trợ, nhằm kéo dài thời gian lưu trú và tăng chi tiêu của khách du lịch. Ví dụ, có thể phát triển du lịch trải nghiệm, gắn với sản xuất nông nghiệp, tổ chức hoạt động dã ngoại, khám phá tự nhiên và xây dựng tuyến tham quan liên tỉnh.

Tập trung nguồn lực để đầu tư phát triển sản phẩm du lịch có thương hiệu và khả năng cạnh tranh cao trong nước và quốc tế, đặc biệt chú trọng sản phẩm du lịch lịch sử cách mạng, du lịch giáo dục truyền thống, du lịch về nguồn và hoạt động tri ân, nhớ về chiến khu xưa.

Quảng bá và phát triển thị trường du lịch văn hóa

Chiến lược quảng bá điểm đến vùng chiến khu Việt Bắc, cần được thực hiện đồng bộ và chuyên nghiệp. Việc tận dụng nền tảng số, công nghệ thông tin, truyền thông hiện đại và mạng xã hội là cần thiết để đưa hình ảnh vùng chiến khu Việt Bắc đến gần hơn với khách du lịch trong nước và quốc tế. Cần thiết lập một hệ thống dữ liệu số hóa, phát hành ấn phẩm song ngữ, tổ chức sự kiện xúc tiến thương mại và du lịch, tham gia hội chợ, hội thảo quốc tế.

Phát triển nguồn nhân lực du lịch văn hóa

Phát triển du lịch văn hóa bền vững cần nguồn nhân lực chất lượng cao. Các địa phương trong vùng, nên phối hợp với cơ sở đào tạo, trường đại học chuyên ngành du lịch để đào tạo nhân lực bài bản; đồng thời, tổ chức khóa tập huấn tại chỗ để nâng cao kiến thức, kỹ năng và thái độ cho đội ngũ lao động trực tiếp phục vụ du lịch. Việc xây dựng động lực và cơ chế khuyến khích đối với người lao động trong lĩnh vực du lịch văn hóa là yếu tố quan trọng để duy trì đội ngũ có tâm huyết, chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.

Phát triển hạ tầng du lịch văn hóa

Hệ thống kết cấu hạ tầng đóng vai trò then chốt trong việc phát triển du lịch bền vững. Cần đầu tư xây dựng và nâng cấp các tuyến đường giao thông kết nối thuận tiện giữa thị trường khách và điểm đến. Bên cạnh đó, phát triển hệ thống cơ sở lưu trú đa dạng từ nhà ở du lịch lưu trú (homestay), khách sạn nhỏ đến khu nghỉ dưỡng cao cấp. Các điểm đón tiếp khách du lịch, trung tâm thông tin du lịch, khu trưng bày hiện vật, phòng chiếu phim tư liệu, nhà hát truyền thống  được xây dựng đồng bộ. Ngoài ra, quan tâm đến hệ thống điện, nước, y tế, vệ sinh công cộng, bãi đỗ xe, nhằm bảo đảm an toàn và thuận tiện cho khách du lịch.

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa

Để bảo đảm sự phát triển du lịch văn hóa bền vững, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Tăng cường đầu tư ngân sách cho công tác bảo tồn, tôn tạo di tích và có chính sách khuyến khích xã hội hóa, tạo điều kiện cho cộng đồng tham gia vào quá trình bảo tồn và phát triển di sản văn hóa. Bên cạnh đó, hoạt động du lịch phải gắn với bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái và tôn trọng tín ngưỡng, phong tục, tập quán của địa phương. Việc khai thác du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, gắn với giáo dục và nâng cao nhận thức trong cộng đồng về giá trị của tài nguyên văn hóa và thiên nhiên.

Tăng cường tổ chức, quản lý hoạt động du lịch văn hóa

Hoạt động quản lý nhà nước về du lịch văn hóa cần được nâng cao, tập trung vào xây dựng và triển khai chiến lược, kế hoạch phát triển du lịch văn hóa dài hạn, đồng bộ và có lộ trình rõ ràng.  Hoàn thiện quy định về du lịch, tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về du lịch văn hóa. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát phải được thực hiện thường xuyên, bảo đảm hoạt động du lịch tuân thủ đúng quy định pháp luật. Chính quyền địa phương các cấp cần chủ động vào cuộc, nâng cao vai trò lãnh đạo, điều hành và chịu trách nhiệm đối với sự phát triển du lịch văn hóa trên địa bàn.

Chính sách phát triển du lịch văn hóa

Chính sách phát triển du lịch văn hóa cần được cụ thể hóa trong văn bản pháp luật và chính sách của Trung ương và địa phương. Chính sách thúc đẩy phát triển du lịch văn hóa cần được thực hiện đồng bộ, như chính sách đầu tư, chính sách thuế, chính sách tín dụng, chính sách phát triển nguồn nhân lực, chính sách xúc tiến quảng bá và đầu tư hạ tầng cần được thực hiện đồng bộ. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, nêu rõ việc tạo môi trường, kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy quan hệ hợp tác công - tư và ưu tiên nguồn lực cho công tác quy hoạch, nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm và xúc tiến quảng bá du lịch.

Liên kết phát triển du lịch văn hóa

Phát triển du lịch văn hóa tại vùng chiến khu Việt Bắc, phải gắn với liên kết vùng và liên ngành. Việc xây dựng tuyến du lịch liên tỉnh, tổ chức sự kiện du lịch quy mô vùng, kết nối điểm đến, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm giữa các địa phương sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp và khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên văn hóa phong phú. Các địa phương trong vùng cần phối hợp nghiên cứu, lập quy hoạch và đầu tư phát triển tuyến, điểm du lịch, trên cơ sở phát huy bản sắc văn hóa và thế mạnh riêng của từng địa phương, qua đó hình thành hệ thống sản phẩm du lịch văn hóa đặc thù trong liên kết vùng. Mặt thuận lợi của du lịch chiến khu Việt Bắc khi sắp tới các tỉnh có nhiều điểm tương đồng được sáp nhập.

Phát triển mô hình du lịch văn hóa dựa vào cộng đồng

Du lịch văn hóa dựa vào cộng đồng là hướng đi phù hợp với đặc thù của vùng chiến khu Việt Bắc. Theo tiêu chuẩn ASEAN, du lịch cộng đồng do cộng đồng sở hữu và điều hành, nhằm góp phần cải thiện sinh kế và bảo tồn di sản văn hóa. Các địa phương cần thống nhất trong quy hoạch, đầu tư và xây dựng mô hình du lịch cộng đồng. Chính quyền địa phương đóng vai trò đầu mối trong định hướng, hỗ trợ và giám sát hoạt động du lịch cộng đồng. Việc phát triển du lịch văn hóa dựa vào cộng đồng, phải gắn liền với bảo tồn giá trị văn hóa tộc người, phát triển bền vững và bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các bên.

Để thúc đẩy du lịch văn hóa vùng chiến khu Việt Bắc trong thời gian tới, cần quan tâm thực hiện phát triển đa dạng hóa sản phẩm du lịch văn hóa, đẩy mạnh công tác tiếp thị, xây dựng thương hiệu điểm đến cho vùng, phát triển nguồn nhân lực, phát triển hạ tầng du lịch văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị di sản đi đôi với khai thác hợp lý, tăng cường công tác tổ chức quản lý hoạt động du lịch văn hóa, tăng cường chính sách phát triển du lịch văn hóa, liên kết phát triển du lịch văn hóa giữa các tỉnh, thành phố trong và ngoài vùng, thúc đẩy du lịch văn hóa dựa vào cộng đồng, và tập trung nguồn lực đầu tư phát triển sản phẩm du lịch có thương hiệu của vùng.

Tóm lại, phát triển du lịch văn hóa tại vùng chiến khu Việt Bắc đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của cộng đồng và doanh nghiệp. Chỉ khi xây dựng được hệ sinh thái du lịch văn hóa bền vững, sản phẩm đa dạng, chất lượng cao, được quảng bá hiệu quả và quản lý chặt chẽ thì mới đưa vùng chiến khu Việt Bắc trở thành điểm đến hấp dẫn và đưa du lịch văn hóa trở thành ngành kinh tế quan trọng của vùng. Định hướng và giải pháp nêu trên sẽ là nền tảng vững chắc để du lịch văn hóa vùng chiến khu Việt Bắc phát triển bền vững, đóng góp tích cực cho kinh tế - xã hội và quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới./.

----------------

* TS Trần Văn Túy, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh; PGS, TS, Lại Xuân Thủy, Giảng viên cao cấp, Học viện Phụ nữ Việt Nam;  TS Phạm Thị Nhạn, Học viện Phụ nữ Việt Nam

(1) Team building (tạm dịch “xây dựng nhóm/tập thể”) là chuỗi hoạt động nhóm, trong đó thành viên trong nhóm tham gia nhiều hoạt động khác nhau nhằm tăng tinh thần đoàn kết, học hỏi, trải nghiệm

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/1093002/phat-trien-du-lich-van-hoa-o-vung-chien-khu-viet-bac---thuc-trang-va-giai-phap.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

Việt Nam - Ba Lan vẽ nên 'bản giao hưởng ánh sáng' trên bầu trời Đà Nẵng
Cây cầu gỗ ven biển Thanh Hoá gây sốt nhờ góc ngắm hoàng hôn đẹp như ở Phú Quốc
Nét đẹp nữ chiến sĩ sao vuông và du kích miền Nam trong nắng hạ Thủ đô
Mùa hội rừng ở Cúc Phương

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm