
Người “giữ lửa” truyền thống
Trong lĩnh vực tín ngưỡng thờ Mẫu, ngoài 80 tuổi, Nghệ nhân ưu tú Đào Đăng Của, thủ nhang đền Tam Kỳ (phường Lê Chân) đã có hơn 30 năm gắn bó với hầu đồng. Ông coi nghi lễ này là sự hòa quyện giữa tâm linh và nghệ thuật, luôn đặt chuẩn mực, sự thành kính lên hàng đầu.
Cùng mạch nguồn đó, Nghệ nhân ưu tú Vũ Thị Chuyên ở phường Trần Liễu cũng là người gắn bó bền bỉ với thực hành tín ngưỡng Tam Phủ từ nhiều năm nay. Sự dấn thân của bà cho thấy di sản không chỉ được bảo tồn ở các trung tâm lớn mà còn được gìn giữ trong từng làng, xã.
Với ca trù, Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Thu Hằng (phường An Biên) là gương mặt nổi bật. Chị đã ba lần giành huy chương vàng toàn quốc, từng đưa tiếng ca trù đến Nhật Bản và được báo chí nước bạn khen ngợi. Không chỉ biểu diễn, chị còn biên soạn giáo trình truyền dạy, trực tiếp đào tạo nhiều học trò. Hiện nay, với vai trò Chủ nhiệm Câu lạc bộ Nghệ thuật dân gian truyền thống (Trung tâm Văn hóa, Triển lãm và Điện ảnh thành phố), chị góp phần xây dựng môi trường sinh hoạt nghệ thuật đa dạng, thu hút cả những người trẻ.

Phường múa rối nước Nhân Hòa (xã Vĩnh Bảo) có lịch sử hơn một thế kỷ, từng đạt nhiều huy chương tại các hội diễn. Năm 2019, phường được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Tuy nhiên, số lượng nghệ nhân hiện chỉ còn hơn 10 người. Nghệ nhân Trần Văn Rũng, Trưởng phường múa rối nước Nhân Hòa đã gắn bó với môn nghệ thuật này hơn 30 năm. Ông luôn trăn trở làm thế nào cố gắng bảo tồn múa rối nước của ông cha.
Sau hợp nhất, Hải Phòng hiện có 4 phường múa rối nước tại các xã Vĩnh Bảo, Khúc Thừa Dụ, Gia Lộc và Hà Tây. Trải qua nhiều thăng trầm, các phường vẫn duy trì hoạt động nhờ tâm huyết của nghệ nhân và thành viên. Nhiều nghệ nhân như Phạm Hùng Ninh, Phạm Khắc Xoa (xã Hà Tây) hay Đinh Văn Phai (xã Gia Lộc) vẫn kiên trì giữ nghề, mở lớp cho thiếu nhi, tạo nền tảng để di sản tiếp tục lan tỏa.
Cần sự đồng hành của cộng đồng và xã hội
Những gương mặt trên cho thấy nghệ nhân dân gian chính là trụ cột của văn hóa cơ sở. Các danh hiệu, phần thưởng được trao là sự ghi nhận cho đóng góp trong bảo tồn và phát huy di sản.
Tuy vậy, họ đang đối diện nhiều khó khăn: tuổi tác cao, lực lượng kế cận ít, đời sống vật chất chưa ổn định. Nghệ nhân Trần Văn Rũng bộc bạch: “Chúng tôi rất tự hào khi nghề rối nước của cha ông được công nhận là di sản quốc gia và hiểu rõ trách nhiệm phải giữ gìn, bảo tồn nét văn hóa đặc sắc này. Nhưng lực lượng nghệ nhân ngày một ít, lớp kế cận chưa nhiều là trở ngại lớn trong việc truyền dạy vốn quý của địa phương”.

Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Thu Hằng cho rằng, để di sản không chỉ tồn tại mà còn phát triển, cần một cách tiếp cận toàn diện: chính sách đãi ngộ thỏa đáng với nghệ nhân; không gian sinh hoạt, biểu diễn được duy trì thường xuyên ở cơ sở; gắn kết nghệ nhân và giáo dục, đưa dân ca, ca trù, múa rối vào trường học; đồng thời đẩy mạnh truyền thông để di sản gần gũi hơn với công chúng.
Theo nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Đình Chỉnh, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Hải Phòng, nghệ nhân dân gian chính là linh hồn của di sản. Muốn di sản sống được thì phải chăm lo cho người giữ di sản, từ đời sống vật chất đến môi trường sáng tạo. Theo đó, không chỉ dừng ở việc tôn vinh danh hiệu, mà cần tạo điều kiện để họ tiếp tục lan tỏa giá trị cho cộng đồng, đặc biệt là lớp trẻ.
Có thể nói, giữ di sản không chỉ ở sự nỗ lực của nghệ nhân, mà còn cần sự đồng hành của cộng đồng và xã hội. Khi những người giữ nghề được quan tâm, trân trọng, di sản sẽ có thêm cơ hội lan tỏa và bền vững hơn. Chính họ - những “báu vật sống” giữa đời thường - tiếp tục làm cho bản sắc văn hóa “Đất Cảng anh hùng - Xứ Đông văn hiến” ngày càng tỏa sáng.
HÀ LINHNguồn: https://baohaiphong.vn/nhung-bau-vat-song-cua-van-hoa-co-so-522009.html
Bình luận (0)