Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Phát triển GD-ĐT vùng dân tộc thiểu số, miền núi đáp ứng yêu cầu mới

GD&TĐ - Từ nhận diện thực trạng, Bộ GD&ĐT đề xuất giải pháp phát triển GD-ĐT vùng dân tộc thiểu số, miền núi đáp ứng yêu cầu mới.

Báo Giáo dục và Thời đạiBáo Giáo dục và Thời đại26/08/2025

Chính sách phát triển giáo dục dân tộc được quan tâm đặc biệt

Báo cáo về các chính sách chuyên biệt ưu tiên về phát triển giáo dục và đào tạo đối với đồng bào dân tộc thiểu số và vùng dân tộc thiểu số, miền núi tại hội thảo quốc gia “Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi: thực trạng, thách thức và giải pháp”, ông Thái Văn Tài, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Phổ thông (Bộ GD&ĐT) cho biết:

Trong các giai đoạn vừa qua, việc thực hiện công tác dân tộc trong đó có các chính sách về phát triển giáo dục dân tộc luôn được ngành Giáo dục đặc biệt quan tâm.

Công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa các quy định của pháp luật về chính sách dân tộc trong giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ trọng tâm được ưu tiên hàng đầu của Bộ GD&ĐT.

Trong đó, tập trung vào việc rà soát các chính sách chuyên biệt về giáo dục và đào tạo đối với đồng bào dân tộc thiểu số và vùng dân tộc thiểu số để sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế những văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành phù hợp với quy định của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục Đại học và thực tiễn.

Các chính sách phát triển GD-ĐT đối với đồng bào dân tộc thiểu số và vùng dân tộc thiểu số, miền núi được thể hiện trong Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Nhà giáo.

Các Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư của Bộ, ngành đã thể chế hóa các chính sách hỗ trợ cho các đối tượng. Trong đó có các chính sách hỗ trợ trẻ em, học sinh, sinh viên ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Các chính sách liên quan đến nhà giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nhằm mục tiêu thu hút, ổn định và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, góp phần phát triển giáo dục ở những khu vực này.

Hiện, Bộ GD&ĐT đang nghiên cứu, xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Nhà giáo theo phân công của Chính phủ và sẽ tiếp tục hoàn thiện các quy định về chế độ, chính sách đối với nhà giáo công tác tại các trường chuyên biệt, công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nhà giáo dạy tiếng Việt cho trẻ em là người dân tộc thiểu số trước khi vào lớp Một, nhà giáo dạy tiếng dân tộc thiểu số,…

Cùng với chính sách cho nhà giáo, người học là các chính sách phát triển hệ thống trường chuyên biệt và đào tạo nhân lực vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi; nhóm chính sách phát triển giáo dục nghề nghiệp cho lao động người dân tộc thiểu số; chính sách phát triển và bảo tồn tiếng dân tộc thiểu số; các chương trình, đề án đang triển khai để phát triển giáo dục và đào tạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân cũng đều ưu tiên hỗ trợ cho GD-ĐT vùng dân tộc thiểu số, miền núi.

Có thể nói, các chủ trương, chính sách đối với đồng bào vùng dân tộc thiểu số, miền núi được thể chế hóa thành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng hoàn thiện, tương đối đầy đủ, đồng bộ. Đối tượng thụ hưởng được mở rộng bộ nhằm thực hiện công bằng trong tiếp cận giáo dục đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Triển khai thực hiện chính sách, Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo các đơn vị thuộc Bộ và các Sở GD&ĐT, các cơ sở đào tạo phổ biến, quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển GD-ĐT vùng dân tộc thiểu số, miền núi thông qua các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của ngành. Thực hiện phổ biến, quán triệt thông qua các hội nghị, hội thảo, tọa đàm về chính sách phát triển GD-ĐT vùng dân tộc thiểu số, miền núi.

Hàng năm, Bộ GD&ĐT tổ chức kiểm tra việc thực hiện chính giáo dục dân tộc tại các địa phương, nắm bắt thông tin từ cơ sở, phát hiện sai sót, bất cập để điều chỉnh.

Trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, các địa phương đã chủ động đưa vào chương trình hành động của ngành, ban hành nhiều văn bản nhằm cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển GD-ĐT trong điều kiện thực tiễn của địa phương. Một số địa phương đã ban hành các chính sách riêng của địa phương để phát triển GD-ĐT cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

ong-thai-van-tai.jpg
Ông Thái Văn Tài, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Phổ thông (Bộ GD&ĐT) phát biểu tại hội thảo.

Sự nghiệp GD-ĐT vùng dân tộc thiểu số, miền núi có nhiều chuyển biến

Với sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước; các chủ trương, chính sách được thể chế hóa thành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng hoàn thiện, tương đối đầy đủ, đồng bộ; chính sách được các cấp, các ngành, địa phương tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, kịp thời, nhân dân đồng tình, ủng hộ…, sự nghiệp GD-ĐT vùng dân tộc thiểu số, miền núi đã có những chuyển biến đáng kể:

Thứ nhất, việc quy hoạch, xây dựng mạng lưới trường lớp từ mầm non đến tiểu học, THCS, THPT được mở rộng, phát triển rộng khắp trên các địa bàn dân cư. Các điểm trường được xây dựng đến các thôn, bản vùng sâu, vùng xa đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.

Đặc biệt là hệ thống các trường chuyên biệt cho vùng dân tộc thiểu số, miền núi (trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học) được quan tâm đầu tư xây dựng ngày càng khang trang, phát huy hiệu quả tích cực từng bước nâng cao chất lượng dạy và học góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ và nguồn nhân lực có chất lượng cho vùng dân tộc thiểu số, miền núi.

Thứ hai, về chất lượng giáo dục đại trà, công tác phổ cập giáo dục trên tất cả địa bàn vùng dân tộc thiểu số, miền núi đã và đang hoàn thành các mục tiêu cơ bản. Tỷ lệ trẻ em mầm non, học sinh đến trường tăng cao; học sinh cấp tiểu học, THCS bỏ học ngày càng giảm.

Trung bình trong 5 năm gần đây, tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo (5 tuổi) người dân tộc thiểu số đến lớp đạt 98% (tỷ lệ chung toàn quốc là 99%). Tỷ lệ huy động học sinh tiểu học toàn quốc trong độ tuổi ra lớp là 98.31%. Tỷ lệ huy động học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số trong độ tuổi ra lớp là 97,25%.

Tỷ lệ học sinh THCS toàn quốc tốt nghiệp THCS khoảng 98,40%. Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, tỷ lệ học sinh THCS tốt nghiệp THCS là 98,24%. Tỷ lệ học sinh THPT toàn quốc tốt nghiệp THPT là 98,40%. Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, tỷ lệ học sinh THPT tốt nghiệp THPT là 98,16%.

Các chỉ số về giáo dục đại trà vùng dân tộc thiểu số xấp xỉ cả nước, thấp hơn không đến 1%. Tuy nhiên về giáo dục mũi nhọn và tỷ lệ đi từ học cấp THPT trở lên ở vùng dân tộc thiểu số còn thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung cả nước.

Có thể nói, suốt mấy chục năm qua, hệ thống chính sách hỗ trợ giáo dục vùng dân tộc thiểu số ngày càng hoàn thiện, hỗ trợ từ trẻ em mầm non đến sinh viên đại học đã mang lại thành quả to lớn trong việc nâng cao dân trí, góp phần phát triển kinh tế - xã hội giữ vững an ninh quốc phòng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

a-xing-1.jpg
Học sinh Trường Tiểu học - THCS A Xing, xã Lìa, Quảng Trị.

Giải pháp phát triển GD-ĐT vùng dân tộc thiểu số, miền núi đáp ứng yêu cầu mới

Cùng với những kết quả đạt được, Bộ GD&ĐT cũng nhận diện hạn chế, bất cập và nguyên nhân trong việc xây dựng chính sách, tổ chức thực hiện chính sách phát triển GD-ĐT đối với đồng bào dân tộc thiểu số và vùng dân tộc thiểu số, miền núi; từ đó đề xuất giải pháp.

Theo đó, tăng cường công tác tuyên truyền về các chính sách phát triển giáo dục đào tạo vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục và đào tạo cho đồng bào dân tộc thiểu số và vùng dân tộc thiểu số, miền núi.

Cụ thể, Bộ GD&ĐT đề xuất bổ sung vào Dự thảo sửa đổi Luật Giáo dục (khoản 2 Điều 85): “2. Nhà nước có chính sách trợ cấp và miễn, giảm học phí cho người học là đối tượng được hưởng chính sách xã hội, người dân tộc thiểu số; người học thường trú tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, xã biên giới; trẻ mồ côi; trẻ em không nơi nương tựa; người khuyết tật, người thuộc hộ nghèo và hộ cận nghèo”.

Đề xuất bổ sung loại trường “Phổ thông nội trú” vào Dự thảo sửa đổi Luật giáo dục (khoản 1 Điều 61): “1. Nhà nước thành lập trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường phổ thông nội trú, trường dự bị đại học cho người học là người dân tộc thiểu số; người học thường trú tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, xã biên giới”.

Tiến hành rà soát, nghiên cứu, đánh giá hệ thống chính sách hiện hành liên quan đến học sinh nội trú, bán trú và đội ngũ giáo viên đang công tác tại các xã biên giới đất liền. Kịp thời sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng bảo đảm học sinh ở các xã biên giới đất liền được hưởng chính sách nội trú, bán trú phù hợp với thực tiễn. khăn về địa hình và khoảng cách địa lý.

Nghiên cứu, xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động trường phổ thông nội trú liên cấp tiểu học và THCS; các chính sách, điều kiện bảo đảm để vận hành, duy trì ổn định, lâu dài hoạt động của trường phổ thông nội trú liên cấp tiểu học và THCS.

Xây dựng phương án bố trí giáo viên, nhân viên trường học phù hợp trên cơ sở rà soát biên chế hiện có và nhu cầu trong thời gian tới.

Rà soát, nghiên cứu, xây dựng chính sách khuyến khích nhân lực (giáo viên, nhân viên trường học) có chất lượng tham gia phục vụ các xã biên giới phù hợp với điều kiện mới. Việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới chính sách (nếu có) phải bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện thực tiễn, hiệu lực, hiệu quả và tuân thủ quy định pháp luật;

Tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ đối với trẻ em, học sinh, sinh viên và cơ sở giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên giới đất liền theo chỉ đạo của Trung ương. Các chính sách cho người học cần được giữ ổn định trong cả cấp học (theo quyết định phân vùng khi học sinh vào đầu cấp)…

Xây dựng chính sách ưu tiên, hỗ trợ đối với đội ngũ nhà giáo công tác ở các trường chuyên biệt, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (cụ thể hóa các điều khoản được quy định tại Luật Nhà giáo)…

Ưu tiên ngân sách đầu tư xây dựng đường nước sinh hoạt, nhà công vụ giáo viên các trường mầm non vùng đặc biệt miền núi, dân tộc thiểu số, biên giới; có chương trình kiên cố hóa trường lớp mầm non đối với khu vực đặc biệt khó khăn, vùng biên giới, hải đảo, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.

Nghiên cứu, đề xuất chính sách và cơ chế khuyến khích xã hội hóa nhằm tăng cường nguồn đầu tư xã hội cho phát triển GD-ĐT nói chung, phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn nói riêng. Nghiên cứu, đề xuất chính sách bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết dân tộc thiểu số. Tăng cường cơ sở vật chất cho các trường nội trú ở các xã biên giới..

Nguồn: https://giaoducthoidai.vn/phat-trien-gd-dt-vung-dan-toc-thieu-so-mien-nui-dap-ung-yeu-cau-moi-post745837.html


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Tổng hợp luyện A80: Sức mạnh Việt Nam tỏa sáng dưới đêm Thủ đô ngàn năm văn hiến
Giao thông Hà Nội hỗn loạn sau mưa lớn, tài xế bỏ ô tô trên đường ngập
Những khoảnh khắc ấn tượng về đội hình bay làm nhiệm vụ trong Đại lễ A80
Mãn nhãn hơn 30 máy bay quân sự lần đầu trình diễn trên Quảng trường Ba Đình

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm