đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Cụ thể hóa quy định của luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, tỉnh đã ban hành văn bản quy định chi tiết; nghiêm túc, kịp thời chỉ đạo việc xây dựng và ban hành các kế hoạch, chương trình về BVMT đảm bảo cụ thể hóa đầy đủ các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của quốc gia về BVMT; ban hành quy chuẩn kỹ thuật địa phương; lồng ghép các chỉ tiêu về môi trường tại quy hoạch tỉnh, làm cơ sở để các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh tập trung, thống nhất, đồng bộ triển khai…
Việc đầu tư cho công tác BVMT, ứng phó biến đổi khí hậu trên địa bàn luôn được quan tâm, chú trọng. Ngân sách tỉnh đã có mục chi riêng cho hoạt động BVMT, tăng dần qua các năm, đảm bảo không thấp hơn 2% tổng chi NSNN trong dự toán ngân sách hằng năm, vượt định mức theo quy định của Trung ương (không thấp hơn 1%). Giai đoạn 2022-2024, tổng chi ngân sách cho hoạt động BVMT là hơn 2.549,7 tỷ đồng.
Cùng với đó, tỉnh tăng cường thực hiện các giải pháp thu hút nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách để thúc đẩy thực hiện hiệu quả các mục tiêu về môi trường. Đã phê duyệt và tiếp nhận 6 dự án từ các nguồn tài trợ, viện trợ. Đối với các nguồn vốn của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động BVMT, giai đoạn 2021-2024, tỉnh đã thu hút đầu tư được 5 dự án với tổng vốn đầu tư trên 48.038 tỷ đồng. Đồng thời, thúc đẩy huy động các nguồn lực từ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các tổ chức xã hội và cộng đồng tham gia các hoạt động BVMT thông qua việc xây dựng và nhân rộng các mô hình KT-XH lồng ghép BVMT, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó với biến đổi khí hậu như các mô hình du lịch sinh thái, cộng đồng tại một số địa phương, các mô hình sản xuất sạch hơn, sử dụng tiết kiệm năng lượng, tài nguyên trong các ngành nghề sản xuất, kinh doanh, dịch vụ…
Việc kiểm soát ô nhiễm môi trường từ các nguồn thải được tỉnh quan tâm chỉ đạo thực hiện thường xuyên, liên tục. Hằng năm, UBND tỉnh ban hành kế hoạch thanh tra, kiểm tra, trong đó tập trung vào đối tượng là các cơ sở sản xuất kinh doanh phát thải lớn, như các cơ sở có hoạt động khai khoáng, sản xuất công nghiệp, hạ tầng đô thị, du lịch; tại các khu vực nhạy cảm về môi trường như các cơ sở xen kẽ trong khu dân cư, khu vực Di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long, KKT, khu cửa khẩu… Chỉ đạo các sở, ban, ngành, UBND các địa phương thực hiện giám sát việc xả thải của các cơ sở thông qua việc theo dõi dữ liệu quan trắc môi trường liên tục, tự động của các trạm quan trắc môi trường. Sở, ban, ngành, UBND các địa phương duy trì và phát huy hiệu quả đường dây nóng về BVMT; theo dõi, nắm bắt, giải quyết các vấn đề môi trường được phản ánh qua báo chí, kiến nghị của cử tri, người dân trong và ngoài tỉnh.
Quảng Ninh đã nỗ lực thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng môi trường. Đơn cử, đối với môi trường nước mặt, tỉnh đã phê duyệt Đề án đảm bảo an ninh nguồn nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030; phê duyệt danh mục các nguồn nước nội tỉnh; danh mục nguồn nước phải lập hành lang bảo vệ; danh mục vùng cấm, vùng hạn chế, vùng phải đăng ký khai thác nước dưới đất; đã triển khai thực hiện cắm mốc bảo vệ hành lang bảo vệ nguồn nước; tăng cường trồng rừng, bảo vệ rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn để tăng khả năng sinh thủy; thực hiện các nhiệm vụ, dự án đầu tư hệ thống thu gom, xử lý nước thải khu sản xuất, khu dân cư...
Tỉnh cũng tăng cường quản lý chất thải, chú trọng thực hiện giải pháp giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải nhựa, phòng, chống ô nhiễm rác thải nhựa đại dương. Các lực lượng thường xuyên thanh kiểm tra, xử lý vi phạm; có sự phân cấp rõ ràng, phối hợp hiệu quả, giám sát chặt chẽ hơn và đẩy mạnh hoạt động hậu kiểm và kiểm soát chặt chẽ dự án; đẩy mạnh đấu tranh, phòng chống tội phạm về môi trường. Năm 2024 phát hiện, xử lý 421 vụ việc đối với 430 đối tượng vi phạm, trong đó đã khởi tố 11 vụ/20 bị can; 6 tháng đầu năm 2025, cơ quan chức năng đã khởi tố 4 vụ/5 bị can.
Với nhiều nỗ lực, công tác BVMT trên địa bàn tỉnh đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Đến nay tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại khu vực nông thôn của tỉnh đạt trên 90%; tỷ lệ chất thải nguy hại được xử lý theo quy định 100%; 100% các KCN, CCN đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn xả thải ra môi trường... Đối với Chỉ số xanh cấp tỉnh (PGI) năm 2024, Quảng Ninh đứng thứ 16 trong top 30 tỉnh có điểm PGI được xếp hạng.
Nguồn: https://baoquangninh.vn/thuc-thi-phap-luat-ve-bao-ve-moi-truong-3369151.html
Bình luận (0)